UserCP Search Help
Home Register
Members List Contact
Xin nhấn vào để xem chi tiết
Trang chủ
Quy định Kiến thức
Chợ
Liên hệ
Logout
Tài trợ
Links
Quảng cáo
Trở lại   Chợ thông tin Mai Táng - Tang lễ Việt Nam > Thông tin - kiến thức về mai táng - tang lễ > Tư vấn - Hỏi - Đáp làm đám tang.

Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 19-10-2012, 03:20 PM
umivungtau umivungtau đang online
Junior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2012
Bài gửi: 27
Mặc định Cửu huyền Thất tổ

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Bốn chữ “Cửu Huyền Thất Tổ”
mang ý nghĩa gì trong văn hoá Việt Nam?
Ánh Quang hỏi; Thích Giác Hoàng trả lời
Kính chào quý Thầy và quý đạo hữu,
Tôi thường nghe đến bốn chữ "Cửu Huyền Thất Tổ", vậy bốn chữ này mang ý nghĩa gì vậy trong văn hoá Việt Nam?
Kính chúc quý đạo hữu thân tâm thường lạc.
Kính chào thân ái,
Ánh Quang.
*******

Kính chào cư sĩ Ánh Quang,
Chúng tôi xin trình bày lần lượt hai vấn đề mà cư sĩ đã nêu:

1) Ý nghĩa của bốn chữ “Cửu Huyền Thất Tổ”
Câu hỏi của cư sĩ làm chúng tôi phải tra khảo lại các từ điển Phật học và Hán học, hơn thế nữa, chúng tôi còn nhờ Đại Đức Thích Minh Nghị hiện đang du học tại Trung Hoa tra khảo giúp nơi các bộ từ điển lớn của Trung Hoa, nhưng cũng không thấy từ nguyên của bốn chữ này. Như chúng ta biết, phần lớn các thuật ngữ Hán Việt đều được người Việt tiếp thu thông qua các cuộc giao lưu văn hoá, tôn giáo Hán - Việt qua nhiều thời đại. Nhưng bốn chữ này, chúng tôi nghĩ là do các nhà Sư Việt Nam sáng tạo, không hề chịu ảnh hưởng văn hoá của Phật giáo Trung Quốc hoặc Ấn Độ.
Không biết bốn chữ nầy được xuất hiện trong văn bản nào sớm nhất, nhưng theo chỗ chúng tôi biết, bốn chữ này xuất hiện trong tác phẩm Sự Lý Dung Thông viết bằng thể thơ song thất lục bát của Thiền sư Hương Hải (1728 - 1715) được Tiến sĩ Lê Mạnh Thác đã dày công biên khảo và dịch lại, cho in chung trong Toàn Tập Minh Châu Hương Hải (Nhà Xuất bản TP. HCM, 2000). Phía sau cuốn sách có in toàn bộ tác phẩm và ngữ lục của Thiền sư bằng chữ Hán. Tác phẩm Sự Lý Dung Thông (trang 416) cũng nằm trong phần phụ lục này, có đề cập đến bốn chữ này trong hai câu thơ:
"Thích độ nhân miễn tam đồ khổ
Thoát cửu huyền thất tổ siêu phương "
(Ðại ý là giáo lý đức Phật Thích-ca hoá độ chúng sanh để thoát khỏi ba đường khổ: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, và có khả năng cứu thoát cửu huyền và thất tổ được siêu thăng).
Có lẽ vì câu trên quá cô đọng nên bản Việt ngữ của Tiến sĩ Lê Mạnh Thát (trang 392), vẫn giữ nguyên như vậy, và phần dưới có chú thích ngắn gọn về bốn chữ "cửu huyền thất tổ" như sau:
"Cửu huyền: Chín đời: Cao, tằng, tổ, cha, mình, con, cháu, chắt, chít. Thất tổ: Bảy đời: Cao, tằng, tổ, cao cao, tằng tằng, tổ tổ, cao tổ."
Mặc dầu trong các từ điển, chúng tôi không thấy có chữ "huyền" nào có nghĩa là "đời" cả, nhưng qua quá trình Việt Hoá, chữ nầy được hiểu như là "đời", và có lẽ nên dịch là "thế hệ" thì chính xác hơn.
Chín thế hệ trên, nếu phiên âm bằng chữ Hán thì được viết như sau: Cao - Tằng - Tổ - Khảo - Kỷ - Tử - Tôn - Tằng - Huyền. Như vậy, nếu lấy thế hệ mình làm chính thì tính ngược lên bốn đời và tính xuống bốn đời thành ra chín đời.
Một vị Hoà Thượng mà người viết có duyên học hỏi đã giải thích rằng, sở dĩ gọi chữ "Huyền" ở đây vì chữ "Huyền" trong "cửu huyền" này vốn có nghĩa là "đen", vô lượng kiếp chúng sanh luân hồi sống chết, khi thân xác này rã rời, phân ly, trả về cho tứ đại, những chất tinh tuỷ xương máu và thịt tan rã, huỷ hoại đều biến thành màu đen nên gọi là "huyền". Bởi chín thế hệ vần xoay, sống chết như vậy nên gọi là "cửu huyền".
Thất Tổ: Là bảy ông tổ. Tổ là Ông nội của đời mình; đi ngược lên sáu đời nữa gọi là thất tổ.
Như vậy, chữ "cửu huyền" bao quát hơn chữ "thất tổ". Vì "thất tổ" chỉ cho các thế hệ đi trước, còn "cửu huyền" không những chỉ cho bốn thế hệ trước mà còn nhắc đến bốn thế hệ sau nữa. Chính vì vậy, nơi thờ phụng những vị quá vãng còn được gọi là "Nhà Thờ Cửu Huyền" (viết bằng tiếng Việt), thỉnh thoảng dùng bốn chữ "Cửu Huyền Thất Tổ" (viết bằng chữ Hán). Quý Tăng Ni miền Nam và miền Bắc cũng dùng cụm từ này để chỉ cho nơi thờ ông bà, cha mẹ mình nhiều đời, nhưng không phổ biến rộng rãi, các vị thường dùng từ "hương linh" chỉ người đã khuất, và nơi thờ các hương linh ấy được gọi là "bàn linh". Các tịnh xá thuộc hệ phái Khất Sĩ dùng từ "Cửu Huyền" hoặc cả "Cửu Huyền Thất Tổ" chỉ cho nơi thờ những người đã quá vãng.

2) “Cửu Huyền Thất Tổ” trong nền văn hoá Việt Nam
Theo cách nhìn tổng quát, văn hóa có hai phần đặc trưng, đó là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Nền văn hóa vật chất bao gồm các lĩnh vực thuộc khoa học kỹ thuật. Văn hóa tinh thần bao gồm các lĩnh vực thuộc học thuật, tư tưởng, tôn giáo và các loại hình giải trí, nghệ thuật
Cách biểu hiện lòng tôn trọng, nhớ ơn và biết ơn ông bà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp qua việc thờ cúng của người Việt Nam thuộc loại hình văn hoá tinh thần. Cách tôn kính, thờ cúng này không phải ở Việt Nam mới có, mà từ thuở nhà Hạ (2183-1752 trước TL), Thương/ Ân (1751-1112 trước TL), Chu (1111? – 249 trước TL) bên Trung Hoa cũng đã có nghi lễ thờ cúng ông bà tổ tiên rồi. Các vua chúa thường đi tế Giao (cúng trời đất) ở một nơi được xem là linh thiêng, hoặc cúng tổ tiên trong Thái Miếu. Nền văn hoá Việt Nam thời cổ và trung đại cũng vậy. Các vua chúa thường đi cúng tế nơi Thái Miếu, nơi đền thờ các vị khai quốc công thần. Còn người dân dã thì thường thờ ông bà cha mẹ tại nhà và làm lễ cúng giỗ hàng năm.
Điều đáng nói ở đây, là nền văn hoá tinh thần nầy đã được duy trì, phát huy và thấm sâu vào lòng dân tộc Việt Nam dù trải bao biến thiên lịch sử. Không phải đất nước nào cũng duy trì được nền văn hoá quý báu này. Trung Hoa, một trong 3 cái nôi văn minh nhân loại thời cổ, đến khi Cách Mạng Tân Hợi năm 1911 thì nền văn hoá tinh thần bị hạ bệ, nhất là giai đoạn “Cách Mạng Văn Hoá” thì tinh thần “ăn trái nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ người đào giếng” hoàn toàn bị xoá sổ, mà thay vào đó là nền văn hoá của “Mao Chủ Tịch”.
Ðại Ðức Minh Nghị đang du học bên Trung Hoa kể cho chúng tôi nghe, khắp đại lục Trung Hoa không có được một nhà có bàn thờ ông bà cha mẹ của mình. Vào nhà chỉ thấy hình của bác Mao Trạch Đông thôi! Các chùa chiền thì không thấy có nhà thờ “Cửu Huyền Thất Tổ” hoặc “Vãng Sinh Ðường”, thậm chí một số chùa chiền cũng không thấy có nhà thờ Tổ (Tổ đường). Khái niệm “thờ cúng” ông bà cha mẹ gần như bị lãng quên và họ còn cho đó là một nghi thức “cổ lổ xỉ”. Họ cho rằng “thờ cúng” là một hình thức mê tín dị đoan, nên đã cực lực loại bỏ! Thế là cả một nền văn hoá “Ẩm thuỷ tư nguyên” (uống nước nhớ nguồn) tốt đẹp mấy ngàn năm, một truyền thống hiếu thảo “phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu, sanh ngãcùlao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực” (Kinh Thi)[1] đã từng làm xúc động bao con tim của bao thế hệ, nay không còn duy trì nữa. Thật buồn thay cho một nền văn hoá có bề dày nhất nhì trong lịch sử văn minh nhân loại, và cũng là một nền văn hoá được đánh giá là tôn trọng chữ hiếu bậc nhất trong lịch sử nhân loại, thế mà ngày nay lại thiếu vắng tinh thần tri ân và báo ân!
May mắn thay, văn hoá Việt Nam, dù trải bao thăng trầm lịch sử, nhưng đạo lý: “Sang đò nhớ ơn người chèo chống, nằm võng nhớ ơn người mắc dây” vẫn được khắc sâu trong tâm khảm người Việt, vẫn ấm áp trong tiếng hát hời ru con muôn thuở:
“Nước chảy ra thương cha nhớ mẹ
Nước chảy vào thương mẹ nhớ cha”.
Lời cuối, cầu chúc cư sĩ thân tâm thường lạc và tinh tấn trong mọi thiện sự.
[1] Cha sanh ra ta, mẹ nuôi lớn ta, xót thương cha mẹ, nuôi ta khó nhọc, muốn báo ơn sâu của cha mẹ, như vói lên trời cao không cùng.”


Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
  #2  
Cũ 19-10-2012, 03:21 PM
hlco hlco đang online
Junior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2012
Bài gửi: 20
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Cửu huyền thất tổ, thật khó giải thích cho tường tận.
Dựa vào một số tham khảo, chúng tôi tóm lượt như sau:

Cửu huyền: Chín đời: Cao, tằng, tổ, cha, mình, con, cháu, chắt, chít. Thất tổ: Bảy đời: Cao, tằng, tổ, cao cao, tằng tằng, tổ tổ, cao tổ.

Thất Tổ: Là bảy ông tổ. Tổ là Ông nội của đời mình; đi ngược lên sáu đời nữa gọi là thất tổ.

Như vậy, chữ "cửu huyền" bao quát hơn chữ "thất tổ". Vì "thất tổ" chỉ cho các thế hệ đi trước, còn "cửu huyền" không những chỉ cho bốn thế hệ trước mà còn nhắc đến bốn thế hệ sau nữa

http://www.vietnamgiapha.com/faq/?mnu=2&id=4&fid=1016
Trả lời với trích dẫn


  #3  
Cũ 19-10-2012, 03:21 PM
hanhphucbichtrang hanhphucbichtrang đang online
Junior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2012
Bài gửi: 23
Mặc định

Cha mẹ còn sống con có nên thờ Cửu huyền Thất tổ hay không?

Hỏi: Kính bạch thầy, nhà con có thờ Phật. Hiện nay, cha mẹ con vẫn còn sống và ông bà có thiết lập bàn thờ bên nội, bên ngoại. Nhưng có người bảo con phải thờ thêm Cửu huyền Thất tổ nữa mới đúng. Như vậy, con có nên thờ thêm hay không?


Ðáp: Việc thờ phụng tổ tiên ông bà là một phong tục tập quán cổ truyền của người Việt Nam chúng ta. Ðây cũng còn là một truyền thống văn hóa hiếu đạo rất cao đẹp tuyệt vời của dân tộc ta. Vì dân tộc ta rất chú trọng đến việc lễ nghi thờ phụng, nhất là đối với vấn đề tri ân và báo ân. “Uống nước nhớ nguồn, hay ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây”. Ðó là những lời khuyến nhắc răn dạy của tổ tiên. Ðạo làm con bao giờ chúng ta cũng phải nhớ đến cội nguồn. Cội nguồn đó là tổ tiên, ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ là những người đã dầy công giáo dưỡng chúng ta khôn lớn nên người. Thế nên, bổn phận làm con chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ công ơn sanh thành giáo dưỡng của ông bà cha mẹ hầu để lo báo đáp thâm ân trong muôn một. Bởi đó là một công lao to lớn mà ở thế gian nầy không gì có thể so sánh được.
Theo nguồn gốc hiếu đạo, có tổ tiên mới sanh ra ông bà và có ông bà mới sanh ra cha mẹ. Vì thế, đối với con cái phải lo phụng dưỡng ông bà cha mẹ khi còn sống và phải tôn thờ cúng kỵ khi người đã khuất bóng. Ðó là bổn phận của đạo làm con. Trong trường hợp của Phật tử, hiện cha mẹ còn sanh tiền, vả lại ông bà cũng có thờ phụng tổ tiên ông bà nội ngoại hai bên, như vậy, theo tôi, nếu như Phật tử muốn thờ thì cần phải hỏi ý kiến của cha mẹ trước. Ðừng vì nghe người ta nói mà mình vội làm theo. Người xưa nói: “áo mặc sao qua khỏi đầu”. Ðối với việc thờ cúng tổ tiên ông bà, Phật tử không nên tự động làm theo ý mình, khi mà cha mẹ còn sống. Trước khi muốn thờ, Phật tử cần phải thưa qua cho cha mẹ biết và phải được sự đồng ý cho phép của ông bà. Thế mới phải đạo làm con.
Còn người nào đó bày vẽ cho Phật tử, có thể là vì họ chưa biết Phật tử còn cha mẹ. Hoặc giả như họ có biết đi chăng nữa, nhưng thiết nghĩ, họ cũng chưa rành mấy về việc lễ nghi, nhất là về cách thức thờ phụng tổ tiên. Tại sao lại phải thờ cửu huyền, trong khi cha mẹ mình vẫn còn sống? Thông thường, người ta hay nói thờ Cửu huyền Thất tổ. Có đôi khi người ta cũng chưa hiểu rõ bốn chữ nầy như thế nào. Riêng hai chữ cửu huyền, thú thật, từ trước tới nay, chúng tôi đã tra cứu trong các quyển tự điển Phật học và Hán tự, nhưng không thấy chỗ nào có nêu ra hai chữ nầy cả. Chỉ thấy trong quyển Từ Ðiển Hán Việt Từ Nguyên của ông Bửu Kế và quyển Hán Việt Từ Ðiển của ông Ðào Duy Anh, cả hai chỉ có nêu ra hai chữ cửu tộc và giải thích mà thôi. Tuyệt nhiên, không thấy có nêu ra hai chữ cửu huyền.
Theo trong Từ Ðiển Hán Việt Từ Nguyên của ông Bửu Kế, Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, ở trang 328 giải thích, thì cửu tộc có nghĩa là chín lớp người trong một họ. 1. bản thân. 2. Cha. 3. Con. 4. Ông nội. 5. Cháu nội. 6. Ông cố. 7. Cháu tằng tôn. 8. Ông sơ. 9. Cháu huyền tôn. Ông còn nói thêm, có thuyết cho rằng: Cửu tộc gồm có: Họ nội 4, họ ngoại 3 và họ vợ 2. Căn cứ theo sự giải thích trên, thì tính từ bản thân mình trở lên gồm có 4 đời hay nói đúng hơn là trải qua 4 thế hệ: Cha, Ông nội, Ông cố, Ông sơ. Trở xuống 4 đời: Con, Cháu, Chắt, Chít. Tính luôn mình chung lại là 9 đời hay 9 thế hệ. Chữ huyền có nghĩa là sợi dây nối kết trải qua nhiều đời ( chữ huyền có nhiều chỗ giải thích khác nhau ).
Nếu phiên âm bằng chữ Hán thì được viết như sau: Cao, Tằng, Tổ, Khảo, Kỷ, Tử, Tôn, Tằng, Huyền. Còn nói Thất tổ gồm có: Cao, tằng, tổ, cao cao, tằng tằng, tổ tổ, cao tổ. Song có điều, riêng tôi vẫn còn thắc mắc thật sự chưa hiểu rõ: nếu chúng ta thờ cửu huyền trải qua chín đời như thế, thì thờ 4 đời trở lên không có gì phải nói. Nhưng nếu tính từ đời mình trở xuống mà thờ, thì thú thật tôi không thể hiểu được. Ở đây, tôi không dám cho việc thờ nầy là phi lý, vì tôi vẫn luôn tôn trọng ý tưởng đặt định của người xưa. Nhưng tôi rất thắc mắc về việc thờ phụng nầy. Vì chả lẽ mình lại thờ mình và thờ con cháu mình. Thậm chí, mình chưa có chắt, chít, thì lấy đâu mà thờ?
Thông thường, ở trong các gia đình người Việt chúng ta, chúng tôi chỉ thấy phần nhiều người ta chỉ thiết lập bàn thờ tổ tiên, ông bà, chớ ít có ai viết chữ để là thờ Cửu huyền Thất tổ. Bốn chữ nầy, chúng tôi thấy trong quyển sách: “Sự Lý Dung Thông” bằng chữ Hán của Thiền sư Hương Hải và được Tiến sĩ Lê Mạnh Thát đã dầy công biên khảo và dịch lại, cho in chung trong Toàn Tập Minh Châu Hương Hải (Nhà Xuất bản TP. HCM, 2000) . Trong đó có hai câu thơ:
Thích độ nhân miễn tam đồ khổ
Thoát cửu huyền thất tổ siêu phương.
Ý nói giáo lý của đức Phật Thích Ca nhằm hóa độ chúng sanh thoát khỏi ba đường khổ: địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh, đồng thời, cũng có khả năng cứu thoát cửu huyền thất tổ được siêu thăng. Ngoài ra, chúng tôi không còn thấy ở chỗ nào khác. Có thể là do sự tra cứu học hỏi của chúng tôi còn nông cạn hạn hẹp. Vấn đề nầy, xin được miễn bàn thêm, vì không phải lý do nghiên cứu ở đây. Chúng tôi chỉ xin nêu ra giải thích đôi điều để cho Phật tử biết sơ qua về cửu huyền thất tổ có liên quan đến việc thờ phụng mà Phật tử đã hỏi, thế thôi.
Tóm lại, tôi xin góp ý đề nghị với Phật tử, nếu như Phật tử muốn thờ, thì nên hỏi qua ý kiến cha mẹ của Phật tử trước. Thử xem ông bà nói sao. Sau đó, Phật tử mới có quyết định. Như thế, thiết nghĩ cũng không phải là muộn và như thế sẽ được thuận thảo tốt đẹp cả hai. Phật tử không nên nghe người ta bày ra rồi mình tự động làm theo. Một việc làm mà mình không hiểu rõ ý nghĩa của việc mình làm, chỉ thấy xưa bày nay bắt chước, thì điều đó cũng không đúng lắm. Kính chúc Phật tử chóng đạt thành sở nguyện.


Last Updated on Wednesday, 21 July 2010 19:16
Trả lời với trích dẫn


  #4  
Cũ 19-10-2012, 03:21 PM
dalatbeco dalatbeco đang online
Junior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2012
Bài gửi: 26
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com


Xem Film cổ trang nhiều ai cũng thấy có từ “Tru di Cửu tộc” còn trong thờ cúng lại cần biết đến “Cửu huyền Thất tổ”. Sinh thời phụ thân tôi chưa giảng giải ý nghĩa cụm từ này cho nghe. Nay hỏi các bậc cao niên trong họ chẳng ai tường, mỗi người giảng một cách. Đành tự tìm hiểu lấy.


1. Về mặt ngữ nghĩa:

Trước hết cần để ý rằng Cửu huyền (H:九玄, A: The nine degrees of relationships,P: Les neuf degrés de parentés) thường gắn với Cửu tộc: (H: 九族, A: The nine families, P: Les neuf familles) và ngược lại.
1.1. Cửu tộc hiểu đơn giản là chín họ, kể từ Cao Tổ đến cháu thuộc Huyền tôn thành 9 đời. Tổ chức thị tộc là tổ chức xã hội loài người từ thời Mẫu hệ. Khi hôn nhân tiến bộ, con đã biết rõ cha là ai thì xã hội chuyển sang thời Phụ hệ. Khi đó, con theo họ cha. Theo thời gian, người cùng họ càng ngày càng đông, dòng máu càng ngày càng pha loãng, lại ở xa cách nhau nên mới đặt ra chế độ Tông pháp, để dễ tập hợp những người cùng trong một họ. Từ Tông pháp đặt ra Cửu Tộc, căn cứ ở dòng huyết tộc, lấy xa gần làm bà con thân sơ theo trực hệ và bàng hệ. Cụ thể chín họ có thể hiểu:
- Theo Trực hệ 直系: người trong họ Cha gồm bản thân ngược lên trên đến Cao Tổ 4 đời, xuôi xuống dưới đến Huyền tôn 4 đời.
- Theo Bàng hệ 傍系: từ bản thân suy ngang ra đến anh em ba tầng, gồm cả nội ngoại sẽ là: Ông ngoại, Bà ngoại, Con dì, Cha vợ, Mẹ vợ, Con cô, Con chị em gái, Cháu ngoại cùng Bản thân mình.
Phối hợp Trực hệ và Bàng hệ, những người trong 9 họ với bản thân có thể kể ra gồm: Cha ruột, Mẹ ruột; Cha vợ (hay Cha chồng), Mẹ vợ (hay Mẹ chồng); Vợ (hoặc Chồng) của Bản thân; Anh chị ruột; Em ruột trai hay gái; Con và Cháu. Đây chính là những mối quan hệ cần năm khi tổ chức tang lễ, cúng giỗ.
1.2. Cửu huyền thất tổ(H: 九玄七祖, A: The ancestors of nine degrees in direct line, P: Les ancêtres de neuf degrés en ligne directe) gồm hai nhóm:
- Cửu huyền
: Chín đời: Cao , tằng , tổ , cha , mình , con , cháu , chắt 曾孫, chít 玄孫 chứ không phải 9 đời tính ngược từ mình lên. Do vậy lời giải thích “Thờ Cửu Huyền là thờ Tổ Tiên chín đời trước của dòng họ nhà mình” là không chính xác.
- Thất Tổ
七祖: Là bảy ông tổ. Tổ là Ông nội của đời mình; đi ngược lên sáu đời nữa gọi là thất tổ: Cao , tằng, cao cao 高高, tằng tằng曾曾, tổ tổ祖祖, cao tổ高祖.
Như vậy, chữ “cửu huyền” bao quát hơn chữ “thất tổ”. Vì “thất tổ” đơn thuần chỉ các thế hệ đi trước, còn “cửu huyền” không những chỉ bốn thế hệ trước mà còn nhắc đến bốn thế hệ sau và gồm cả bản thân (ngã) là ở giữa.
1.3. Trên Internet có tác giả Trung Quốc nói về mấy chữ này như sau :
九玄 Cửu Huyền:子 (Tử, con), (Tôn, cháu), (Tằng, chắt), (Huyền, chút)、來 (Lai, chít), (Côn, nối), (Nhưng, quay lại), (Vân, xa), (Nhĩ, chút chít).
七祖 Thất Tổ:父 (Phụ, cha), (Tổ, ông), (Tằng, cụ), (Cao, kị), (Thái, cố), (Huyền, ), (Hiển, ).
Như vậy Cha nằm trong hệ thống Thất Tổ và thuộc Nhất Tổ, Ông là Nhị Tổ, Cụ là Tam Tổ, Kị là Tứ Tổ, Cố là Ngũ Tổ, Lục Tổ rồi Thất Tổ. đây là quan niệm về hai hệ thống của Cửu huyền thất tổ.
2. Ý nghĩa thờ cúng:

Thờ cúng “Cửu Huyền Thất Tổ” là tỏ lòng kính trọng các bậc tiền nhân đã sinh dưỡng, dày công dạy dỗ, chỉ bảo làm ăn, cử chỉ hành động sao cho được tốt đẹp, hợp đạo lý, để phát huy sự nghiệp của Tổ tiên và làm rạng rỡ Tổ tiên, là thờ cúng cái nguồn gốc phàm trần của xác thân.
Nho giáo cho rằng “Cửu huyền Thất Tổ” là một hệ thống, trong đó Cha không liệt vào Thất Tổ và qui định cách thờ Tổ Tiên có thứ bậc từ dân cho đến vua như sau:
- Sĩ và thứ dân chỉ được thờ tới Nhất Tổ (, Tổ, Ông Nội).
- Các quan Ðại Phu được thờ tới Tam Tổ (, Cao tổ, Kị).
- Các vua chư Hầu được thờ tới Ngũ Tổ (, Huyền tổ, Sơ).
- Hoàng Ðế (Thiên tử) thì thờ tới Thất Tổ (, Viễn tổ)
Theo đó, thờ Thất tổ chỉ dành chua Vua, dân thường không được thờ. Khi muốn thờ Tổ Tiên cao hơn nữa thì người dân nói là thờ Cửu Huyền, tránh dùng chữ Thất Tổ mà bị tội phạm thượng.
Bởi Cửu Huyền lấy theo cách gọi tên trong Cửu Tộc thời nhà Hán: Lấy bản thân làm mốc, lên trên bốn đời, xuống dưới bốn đời nên nói thờ Cửu huyền có người cho rằng chẳng lẽ thờ cả cả con cháu của mình? Thực ra, đây chính là thể hiện đủ cả Âm (đã mất), Dương (còn sống); để chỉ 3 đời nối tiếp nhau (quá khứ, hiện tại, tương lai); cũng là chỉ rằng có sự luân hồi chuyển kiếp trong dòng họ và thể hiện sự vay trả phúc, tội của các kiếp.
3. Bàn thờ “Cửu huyền thất tổ”:

Có thể đặt riêng, nếu nhà có điều kiện hay tôn giáo mình theo buộc như vậy. Thường thờ chung một Ban thờ với ba Bát hương như vùng quê tôi vẫn bài trí. Trong đó Bài vị ở giữa ghi chữ 九玄七祖(Cửu huyền thất tổ) còn đôi liễn hai bên có nơi bên trái viết: 崇德九玄恩上重(âm: Sùng đức Cửu Huyền ân thượng trọng, nghĩa: Kính bái đức độ của Cửu Huyền đó ơn cao trọng) và bên phải viết: 尊功七祖義高深(âm: Tôn công Thất Tổ nghĩa cao thâm, tức là: Tôn trọng công nghiệp của Thất Tổ là nghĩa cao sâu).
Thực tế ít gia đình lập bàn thờ “Cửu huyền thất tổ” riêng mà thường đặt chung một ban thờ, trong đó có bát hương ngầm hiểu. Hơn nữa cũng chẳng mấy người hiểu được “ngọn nguồn” mà chỉ hiểu chung là Tổ tiên. Cốt ở tấm lòng!
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 11:03 AM

SangNhuong.com SangNhuong.com

© 2008 - 2024 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.