|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
#1
|
|||
|
|||
Cửu huyền Thất tổ
|
#2
|
|||
|
|||
Cửu huyền thất tổ, thật khó giải thích cho tường tận. Dựa vào một số tham khảo, chúng tôi tóm lượt như sau: Cửu huyền: Chín đời: Cao, tằng, tổ, cha, mình, con, cháu, chắt, chít. Thất tổ: Bảy đời: Cao, tằng, tổ, cao cao, tằng tằng, tổ tổ, cao tổ. Thất Tổ: Là bảy ông tổ. Tổ là Ông nội của đời mình; đi ngược lên sáu đời nữa gọi là thất tổ. Như vậy, chữ "cửu huyền" bao quát hơn chữ "thất tổ". Vì "thất tổ" chỉ cho các thế hệ đi trước, còn "cửu huyền" không những chỉ cho bốn thế hệ trước mà còn nhắc đến bốn thế hệ sau nữa http://www.vietnamgiapha.com/faq/?mnu=2&id=4&fid=1016 |
#3
|
|||
|
|||
Cha mẹ còn sống con có nên thờ Cửu huyền Thất tổ hay không?
Hỏi: Kính bạch thầy, nhà con có thờ Phật. Hiện nay, cha mẹ con vẫn còn sống và ông bà có thiết lập bàn thờ bên nội, bên ngoại. Nhưng có người bảo con phải thờ thêm Cửu huyền Thất tổ nữa mới đúng. Như vậy, con có nên thờ thêm hay không? Ðáp: Việc thờ phụng tổ tiên ông bà là một phong tục tập quán cổ truyền của người Việt Nam chúng ta. Ðây cũng còn là một truyền thống văn hóa hiếu đạo rất cao đẹp tuyệt vời của dân tộc ta. Vì dân tộc ta rất chú trọng đến việc lễ nghi thờ phụng, nhất là đối với vấn đề tri ân và báo ân. “Uống nước nhớ nguồn, hay ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây”. Ðó là những lời khuyến nhắc răn dạy của tổ tiên. Ðạo làm con bao giờ chúng ta cũng phải nhớ đến cội nguồn. Cội nguồn đó là tổ tiên, ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ là những người đã dầy công giáo dưỡng chúng ta khôn lớn nên người. Thế nên, bổn phận làm con chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ công ơn sanh thành giáo dưỡng của ông bà cha mẹ hầu để lo báo đáp thâm ân trong muôn một. Bởi đó là một công lao to lớn mà ở thế gian nầy không gì có thể so sánh được. Theo nguồn gốc hiếu đạo, có tổ tiên mới sanh ra ông bà và có ông bà mới sanh ra cha mẹ. Vì thế, đối với con cái phải lo phụng dưỡng ông bà cha mẹ khi còn sống và phải tôn thờ cúng kỵ khi người đã khuất bóng. Ðó là bổn phận của đạo làm con. Trong trường hợp của Phật tử, hiện cha mẹ còn sanh tiền, vả lại ông bà cũng có thờ phụng tổ tiên ông bà nội ngoại hai bên, như vậy, theo tôi, nếu như Phật tử muốn thờ thì cần phải hỏi ý kiến của cha mẹ trước. Ðừng vì nghe người ta nói mà mình vội làm theo. Người xưa nói: “áo mặc sao qua khỏi đầu”. Ðối với việc thờ cúng tổ tiên ông bà, Phật tử không nên tự động làm theo ý mình, khi mà cha mẹ còn sống. Trước khi muốn thờ, Phật tử cần phải thưa qua cho cha mẹ biết và phải được sự đồng ý cho phép của ông bà. Thế mới phải đạo làm con. Còn người nào đó bày vẽ cho Phật tử, có thể là vì họ chưa biết Phật tử còn cha mẹ. Hoặc giả như họ có biết đi chăng nữa, nhưng thiết nghĩ, họ cũng chưa rành mấy về việc lễ nghi, nhất là về cách thức thờ phụng tổ tiên. Tại sao lại phải thờ cửu huyền, trong khi cha mẹ mình vẫn còn sống? Thông thường, người ta hay nói thờ Cửu huyền Thất tổ. Có đôi khi người ta cũng chưa hiểu rõ bốn chữ nầy như thế nào. Riêng hai chữ cửu huyền, thú thật, từ trước tới nay, chúng tôi đã tra cứu trong các quyển tự điển Phật học và Hán tự, nhưng không thấy chỗ nào có nêu ra hai chữ nầy cả. Chỉ thấy trong quyển Từ Ðiển Hán Việt Từ Nguyên của ông Bửu Kế và quyển Hán Việt Từ Ðiển của ông Ðào Duy Anh, cả hai chỉ có nêu ra hai chữ cửu tộc và giải thích mà thôi. Tuyệt nhiên, không thấy có nêu ra hai chữ cửu huyền. Theo trong Từ Ðiển Hán Việt Từ Nguyên của ông Bửu Kế, Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, ở trang 328 giải thích, thì cửu tộc có nghĩa là chín lớp người trong một họ. 1. bản thân. 2. Cha. 3. Con. 4. Ông nội. 5. Cháu nội. 6. Ông cố. 7. Cháu tằng tôn. 8. Ông sơ. 9. Cháu huyền tôn. Ông còn nói thêm, có thuyết cho rằng: Cửu tộc gồm có: Họ nội 4, họ ngoại 3 và họ vợ 2. Căn cứ theo sự giải thích trên, thì tính từ bản thân mình trở lên gồm có 4 đời hay nói đúng hơn là trải qua 4 thế hệ: Cha, Ông nội, Ông cố, Ông sơ. Trở xuống 4 đời: Con, Cháu, Chắt, Chít. Tính luôn mình chung lại là 9 đời hay 9 thế hệ. Chữ huyền có nghĩa là sợi dây nối kết trải qua nhiều đời ( chữ huyền có nhiều chỗ giải thích khác nhau ). Nếu phiên âm bằng chữ Hán thì được viết như sau: Cao, Tằng, Tổ, Khảo, Kỷ, Tử, Tôn, Tằng, Huyền. Còn nói Thất tổ gồm có: Cao, tằng, tổ, cao cao, tằng tằng, tổ tổ, cao tổ. Song có điều, riêng tôi vẫn còn thắc mắc thật sự chưa hiểu rõ: nếu chúng ta thờ cửu huyền trải qua chín đời như thế, thì thờ 4 đời trở lên không có gì phải nói. Nhưng nếu tính từ đời mình trở xuống mà thờ, thì thú thật tôi không thể hiểu được. Ở đây, tôi không dám cho việc thờ nầy là phi lý, vì tôi vẫn luôn tôn trọng ý tưởng đặt định của người xưa. Nhưng tôi rất thắc mắc về việc thờ phụng nầy. Vì chả lẽ mình lại thờ mình và thờ con cháu mình. Thậm chí, mình chưa có chắt, chít, thì lấy đâu mà thờ? Thông thường, ở trong các gia đình người Việt chúng ta, chúng tôi chỉ thấy phần nhiều người ta chỉ thiết lập bàn thờ tổ tiên, ông bà, chớ ít có ai viết chữ để là thờ Cửu huyền Thất tổ. Bốn chữ nầy, chúng tôi thấy trong quyển sách: “Sự Lý Dung Thông” bằng chữ Hán của Thiền sư Hương Hải và được Tiến sĩ Lê Mạnh Thát đã dầy công biên khảo và dịch lại, cho in chung trong Toàn Tập Minh Châu Hương Hải (Nhà Xuất bản TP. HCM, 2000) . Trong đó có hai câu thơ: Thích độ nhân miễn tam đồ khổÝ nói giáo lý của đức Phật Thích Ca nhằm hóa độ chúng sanh thoát khỏi ba đường khổ: địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh, đồng thời, cũng có khả năng cứu thoát cửu huyền thất tổ được siêu thăng. Ngoài ra, chúng tôi không còn thấy ở chỗ nào khác. Có thể là do sự tra cứu học hỏi của chúng tôi còn nông cạn hạn hẹp. Vấn đề nầy, xin được miễn bàn thêm, vì không phải lý do nghiên cứu ở đây. Chúng tôi chỉ xin nêu ra giải thích đôi điều để cho Phật tử biết sơ qua về cửu huyền thất tổ có liên quan đến việc thờ phụng mà Phật tử đã hỏi, thế thôi. Tóm lại, tôi xin góp ý đề nghị với Phật tử, nếu như Phật tử muốn thờ, thì nên hỏi qua ý kiến cha mẹ của Phật tử trước. Thử xem ông bà nói sao. Sau đó, Phật tử mới có quyết định. Như thế, thiết nghĩ cũng không phải là muộn và như thế sẽ được thuận thảo tốt đẹp cả hai. Phật tử không nên nghe người ta bày ra rồi mình tự động làm theo. Một việc làm mà mình không hiểu rõ ý nghĩa của việc mình làm, chỉ thấy xưa bày nay bắt chước, thì điều đó cũng không đúng lắm. Kính chúc Phật tử chóng đạt thành sở nguyện. Last Updated on Wednesday, 21 July 2010 19:16 |
#4
|
|||
|
|||
Xem Film cổ trang nhiều ai cũng thấy có từ “Tru di Cửu tộc” còn trong thờ cúng lại cần biết đến “Cửu huyền Thất tổ”. Sinh thời phụ thân tôi chưa giảng giải ý nghĩa cụm từ này cho nghe. Nay hỏi các bậc cao niên trong họ chẳng ai tường, mỗi người giảng một cách. Đành tự tìm hiểu lấy. 1. Về mặt ngữ nghĩa: Trước hết cần để ý rằng Cửu huyền (H:九玄, A: The nine degrees of relationships,P: Les neuf degrés de parentés) thường gắn với Cửu tộc: (H: 九族, A: The nine families, P: Les neuf familles) và ngược lại. 1.1. Cửu tộc hiểu đơn giản là chín họ, kể từ Cao Tổ đến cháu thuộc Huyền tôn thành 9 đời. Tổ chức thị tộc là tổ chức xã hội loài người từ thời Mẫu hệ. Khi hôn nhân tiến bộ, con đã biết rõ cha là ai thì xã hội chuyển sang thời Phụ hệ. Khi đó, con theo họ cha. Theo thời gian, người cùng họ càng ngày càng đông, dòng máu càng ngày càng pha loãng, lại ở xa cách nhau nên mới đặt ra chế độ Tông pháp, để dễ tập hợp những người cùng trong một họ. Từ Tông pháp đặt ra Cửu Tộc, căn cứ ở dòng huyết tộc, lấy xa gần làm bà con thân sơ theo trực hệ và bàng hệ. Cụ thể chín họ có thể hiểu: - Theo Trực hệ 直系: người trong họ Cha gồm bản thân ngược lên trên đến Cao Tổ 4 đời, xuôi xuống dưới đến Huyền tôn 4 đời. - Theo Bàng hệ 傍系: từ bản thân suy ngang ra đến anh em ba tầng, gồm cả nội ngoại sẽ là: Ông ngoại, Bà ngoại, Con dì, Cha vợ, Mẹ vợ, Con cô, Con chị em gái, Cháu ngoại cùng Bản thân mình. Phối hợp Trực hệ và Bàng hệ, những người trong 9 họ với bản thân có thể kể ra gồm: Cha ruột, Mẹ ruột; Cha vợ (hay Cha chồng), Mẹ vợ (hay Mẹ chồng); Vợ (hoặc Chồng) của Bản thân; Anh chị ruột; Em ruột trai hay gái; Con và Cháu. Đây chính là những mối quan hệ cần năm khi tổ chức tang lễ, cúng giỗ. 1.2. Cửu huyền thất tổ(H: 九玄七祖, A: The ancestors of nine degrees in direct line, P: Les ancêtres de neuf degrés en ligne directe) gồm hai nhóm: - Cửu huyền : Chín đời: Cao 高, tằng 曾, tổ 祖, cha 父, mình 我, con 子, cháu 孫, chắt 曾孫, chít 玄孫 chứ không phải 9 đời tính ngược từ mình lên. Do vậy lời giải thích “Thờ Cửu Huyền là thờ Tổ Tiên chín đời trước của dòng họ nhà mình” là không chính xác. - Thất Tổ 七祖: Là bảy ông tổ. Tổ là Ông nội của đời mình; đi ngược lên sáu đời nữa gọi là thất tổ: Cao 高, tằng曾, cao cao 高高, tằng tằng曾曾, tổ tổ祖祖, cao tổ高祖. Như vậy, chữ “cửu huyền” bao quát hơn chữ “thất tổ”. Vì “thất tổ” đơn thuần chỉ các thế hệ đi trước, còn “cửu huyền” không những chỉ bốn thế hệ trước mà còn nhắc đến bốn thế hệ sau và gồm cả bản thân (我ngã) là ở giữa. 1.3. Trên Internet có tác giả Trung Quốc nói về mấy chữ này như sau : 九玄 Cửu Huyền:子 (Tử, con),孫 (Tôn, cháu),曾 (Tằng, chắt), 玄 (Huyền, chút)、來 (Lai, chít), 昆 (Côn, nối), 仍 (Nhưng, quay lại), 雲 (Vân, xa), 耳 (Nhĩ, chút chít). 七祖 Thất Tổ:父 (Phụ, cha), 祖 (Tổ, ông), 曾 (Tằng, cụ), 高 (Cao, kị), 太 (Thái, cố), 玄 (Huyền, sơ), 顯 (Hiển, rõ ). Như vậy Cha nằm trong hệ thống Thất Tổ và thuộc Nhất Tổ, Ông là Nhị Tổ, Cụ là Tam Tổ, Kị là Tứ Tổ, Cố là Ngũ Tổ, Lục Tổ rồi Thất Tổ. đây là quan niệm về hai hệ thống của Cửu huyền thất tổ. 2. Ý nghĩa thờ cúng: Thờ cúng “Cửu Huyền Thất Tổ” là tỏ lòng kính trọng các bậc tiền nhân đã sinh dưỡng, dày công dạy dỗ, chỉ bảo làm ăn, cử chỉ hành động sao cho được tốt đẹp, hợp đạo lý, để phát huy sự nghiệp của Tổ tiên và làm rạng rỡ Tổ tiên, là thờ cúng cái nguồn gốc phàm trần của xác thân. Nho giáo cho rằng “Cửu huyền Thất Tổ” là một hệ thống, trong đó Cha không liệt vào Thất Tổ và qui định cách thờ Tổ Tiên có thứ bậc từ dân cho đến vua như sau: - Sĩ và thứ dân chỉ được thờ tới Nhất Tổ (祖, Tổ, Ông Nội). - Các quan Ðại Phu được thờ tới Tam Tổ (高祖, Cao tổ, Kị). - Các vua chư Hầu được thờ tới Ngũ Tổ (玄祖, Huyền tổ, Sơ). - Hoàng Ðế (Thiên tử) thì thờ tới Thất Tổ (遠祖, Viễn tổ) Theo đó, thờ Thất tổ chỉ dành chua Vua, dân thường không được thờ. Khi muốn thờ Tổ Tiên cao hơn nữa thì người dân nói là thờ Cửu Huyền, tránh dùng chữ Thất Tổ mà bị tội phạm thượng. Bởi Cửu Huyền lấy theo cách gọi tên trong Cửu Tộc thời nhà Hán: Lấy bản thân làm mốc, lên trên bốn đời, xuống dưới bốn đời nên nói thờ Cửu huyền có người cho rằng chẳng lẽ thờ cả cả con cháu của mình? Thực ra, đây chính là thể hiện đủ cả Âm (đã mất), Dương (còn sống); để chỉ 3 đời nối tiếp nhau (quá khứ, hiện tại, tương lai); cũng là chỉ rằng có sự luân hồi chuyển kiếp trong dòng họ và thể hiện sự vay trả phúc, tội của các kiếp. 3. Bàn thờ “Cửu huyền thất tổ”: Có thể đặt riêng, nếu nhà có điều kiện hay tôn giáo mình theo buộc như vậy. Thường thờ chung một Ban thờ với ba Bát hương như vùng quê tôi vẫn bài trí. Trong đó Bài vị ở giữa ghi chữ 九玄七祖(Cửu huyền thất tổ) còn đôi liễn hai bên có nơi bên trái viết: 崇德九玄恩上重(âm: Sùng đức Cửu Huyền ân thượng trọng, nghĩa: Kính bái đức độ của Cửu Huyền đó ơn cao trọng) và bên phải viết: 尊功七祖義高深(âm: Tôn công Thất Tổ nghĩa cao thâm, tức là: Tôn trọng công nghiệp của Thất Tổ là nghĩa cao sâu). Thực tế ít gia đình lập bàn thờ “Cửu huyền thất tổ” riêng mà thường đặt chung một ban thờ, trong đó có bát hương ngầm hiểu. Hơn nữa cũng chẳng mấy người hiểu được “ngọn nguồn” mà chỉ hiểu chung là Tổ tiên. Cốt ở tấm lòng! |
CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI |
Công cụ bài viết | |
Kiểu hiển thị | |
|
|