Xem bài viết riêng lẻ
  #3  
Cũ 19-10-2012, 03:56 PM
hwakyungbc hwakyungbc đang online
Junior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2012
Bài gửi: 14
Mặc định

Vợ Tư Mắm chúm chím cười, nói một câu lấy lòng bà chủ quán, đoạn từ tốn nhấc chiếc ghế ra, rón rén ngồi xuống. Đúng như lăo Ba Ngù nói, cứ trông hai người này, khó ai tin rằng họ là một cặp vợ chồng. Tư Mắm thì vừa hôi vừa bẩn, vừa hà tiện vừa vũ phu. Còn mụ vợ hắn, tuy ăn vận mộc mạc ra vẻ một người lam lũ, nhưng từ cách nói năng cho đến dáng đi, cách đứng thě rõ ra là người hạng phong lưu đài các. Thấy tôi che tay lên miệng ngáp, mụ ta vỗ vỗ nhẹ vào lưng tôi:
-Chịu khó thức một chút. Rồi qua cho tiền sáng mai ăn bánh.
Tư Mắm xuống thuyền xách lên chai "cột nhà vuông" và một xâu cua biển. Hắn đi thẳng vào bếp, vất xâu cua xuống cạnh lò, mắt đảo một vòng ra tận sân sau. Tôi đi sau lưng hắn, thấy vậy bčn hỏi:
-Chú kiếm rổ hay cái gì, bảo tôi lấy cho.
-A! Không -Tư Mắm giật mình quay lại.
-Qua coi nhà còn gì nhậu được nữa không thôi mà.
Rồi hắn cầm chai rượu ra, rủ rỉ nói với dì Tư Béo đang loay hoay cầm khăn lau cốc bên bàn:
-Nấu nồi cháo cua ăn chơi đi, dě Tư!
-Cháo cua làm gì! Nhà vừa nấu nồi cháo gà cho mấy ông khách. Họ chỉ húp mỗi người vài muổng, vì trước đó đă ních hết rá bún rồi, còn ăn uống gì nữa. Trời, nồi cháo gà nấu đậu xanh, ngọt lắm. Để hâm nóng lại thôi!
Dì Tư Béo miệng nói, tay khoát ra hiệu bảo tôi vào nhóm bếp lò.
-Vậy thì nướng vài con cua nhá chơi! Còn bao nhiêu biếu dì!
Tư Mắm đảo mắt nói. Rồi hắn hỏi trống không:
-Chà, khẩu hiệu ai mới dán đây nhỉ?
Dì Tư Béo không đáp. Tính bà ta vốn như vậy, ai hỏi riêng bà thì bà nói, không thì thôi. Mụ vợ tên lái buôn cau mắt lườm hắn một cái, từ trong hai con ngươi phát ra những tia sáng quắc, nhọn như những mũi kim. Nếu tôi không chú ý mụ từ trước, thì không thể nào bắt gặp cái lườm dữ dội trong thoáng chớp ấy. Tư Mắm tức thời cười hề hề, nói lảng:
-Chèo rã cả tay mà bữa nay chẳng bán được mấy. Chỉ toàn bán chịu cho vài người mới quen.
Mụ vợ hắn hỏi xin quả chanh và một thìa đường trắng, rồi tự tay rót thứ rượu tây của mụ ra cốc, cho đường vŕo, hâm nóng cốc rượu trong bát nước sôi sau khi đă thả vào cốc một lát chanh rồi cầm cái đĩa đậy lęn.
-Cháu không biết uống rượu đâu! -Mụ cười chúm chím ngó dě Tư -Thuốc giải cảm đấy. Đi nhiều, mệt, uống một cốc nŕy nó ra mồ hôi, khoẻ người lại ngay!
Tư Mắm ngồi hút thuốc phì phèo. Hắn lại hỏi dì Tư:
-ờ, lúc nãy thấy bác Ba Ngù chèo tam bản đưa ông nào đi đâu vậy, hử dě?
Dì Tư Béo nhướng lông mày, làm mặt quan trọng. Bà ta không nhìn Tư Mắm, nghiêng người xuống gần bên con mụ vợ hắn, ngón tay trỏ đặt ngang mồm:
-Đừng có lộ bí mật nhá. ông ấy lớn lắm đấy. Cấp Nam Bộ mŕ! Chà, ông khỉ gì, quên rồi.
Đoạn bŕ ta quay vào cửa bếp hỏi tôi: "ông hồi nãy làm chức gì, mày nhớ không?" Tôi không muốn trả lời, nhưng buộc lòng phải đáp cho có đáp: “Cháu không nghe nói!".
-ối! Nó con nít, biết cái gì mà dì hỏi nó! -Tư Mắm cười hề hề, nhịp chân rung đùi. Mụ vợ Tư Mắm ngó ra bến, liếc hắn một cái, thong thả đưa bàn tay ngón búp măng vén mớ tóc mai:
-Bán mấy chỗ mà không ghi chép gì cả. Mai mốt đây quên đi, làm sao đòi được. Khổ quá!
Mụ móc trong túi ra quyển sổ con và cây bút máy, đặt lên bàn. Tư Mắm rời ghế đứng dậy, bước ra ngoài tối. Nghe hắn nói vọng vào: "Khuya rồi mà không mưa được, oi bức quá. Đứng đây một chốc cho mát. Dě Tư, hễ được cháo thě dì nhấc ra, nướng luôn vài con cua, nghe dì!" Thấy tôi lại ngáp, dì Tư Béo bèn bảo tôi xuống chiếc thuyền mui ống của dì vẫn đậu trong mương, đi ngủ trước đi. Mụ vợ Tư Mắm vẫy tôi đến, giúi vŕo tay tôi tờ giấy bạc năm hŕo. Tôi không lấy, đặt trả lęn bàn...
-Cầm đi mŕ! -Con mụ cười cười, nhìn tôi có hơi ngạc nhiên.
-ối! Nó không lấy thì thôi, kệ nó! Thằng này có phải như người ta đâu!
Dì Tư Béo có ý bực tức vì tiếc hộ cho tôi. Tôi bước ra ngoài, không nghe bà ta nói gì về mình nữa, bèn đi thẳng ra mương chui xuống thuyền, rúc vào nóp. Muỗi vo ve kêu dậy trong những lùm cỏ rũ ngọn xuống hai bờ mương. Tôi tưởng nằm xuống là đánh một giấc thẳng cẳng, hóa ra lại không ngủ được. Không hiểu sao cái lườm của mụ vợ Tư Mắm cứ như xoáy vŕo óc tôi, khiến tôi sờ sợ. Chưa bao giờ tôi thấy một người đŕn bà nói năng mềm mỏng, nhỏ nhẹ mà lại có đôi mắt lạ lùng, vừa đẹp vừa đáng sợ như vậy. Các bŕ bán cá trong chợ cãi nhau những lúc giận dữ, mắt long lên sòng sọc vẫn không có nét gì đáng sợ như mắt con mụ này. Độc lập hay là chết! Nước Việt Nam của người Việt Nam! Những dòng chữ rắn rỏi khắc gỗ in mộc bản trên các tờ khẩu hiệu mà anh Sáu tuyên truyền vừa dán vào vách từ chập tối bỗng lại hiện ra, nhảy múa trước mắt tôi. Trong tai tôi, nghe mơ hồ nhạc điệu buồn buồn của tiếng gió phẩy động ngọn dừa nơi một lŕng quê xa nào đó ở mạn Tiền Giang mà tôi không còn nhớ rõ... Tôi lại thấy ông Huỳnh Tấn toét miệng ra cười. Gương mặt ông đang cười bỗng tối sầm lại. "Anh em có ai rút lui đâu!" Tiếng muỗi vo ve mỗi lúc một xa dần. Tôi ngủ thiếp đi lúc nŕo không biết nữa.
3. ông lão bán rắn
Hai đęm sau đó, trời mưa lięn tiếp. Phần vì trời mưa, không mấy người đi chợ, phần vì có lệnh của thôn bộ Việt Minh cấm họp chợ đêm, đề phòng bọn Việt gian trà trộn và xã không kiểm tra được, nên xóm chợ Ngã Ba Kênh vào lúc quá đỏ đčn đă trở nên buồn thỉu buồn thiu. Chỉ còn quán cà phê dưới tán cây bã đậu, mấy tiệm hủ tiếu của người Hoa kiều ở chỗ dãy phố ngói nằm bên trong chợ ngó ra kênh và quán dì Tư Béo là có ánh đèn, lác đác bóng người lui tới. Chợ chỉ đông ban ngŕy, nhưng người cũng chỉ nhóm họp lưa thưa. Nhiều gia đěnh đă rục rịch tản cư xuống Thới Bình. Mấy hôm trước, những lúc trời im gió, đứng ở bờ kênh có thể nghe tiếng trầm trầm của súng đại bác bắn từ xa. Sáng nay, nhiều người còn nghe cả tiếng súng đại liên của tàu giặc ở hướng Ngã Năm. Dì Tư Béo đóng cửa quán, nghỉ một ngày để thu vén công nợ, đi đňi các món tiền rượu chịu của người quanh xóm.
Buổi trưa rảnh rỗi, tôi cũng mò vào chợ chơi, nghe ngóng tình hình. Phòng thông tin trước kia là nơi tụ họp đông người nhất. Vậy mà hôm nay cũng chẳng có mấy người vào xem tin tức, bởi chỉ toàn những tin tức cũ. Một đôi dòng tin mới, viết tay dán vội lên đó thì cũng chẳng hơn gì sự hiểu biết của mọi người, chẳng đáng chú ý và hấp dẫn bằng những tin đồn nhảm vô căn cứ, thậm chí nhiều khi cňn vô lý nữa kia. Lực lượng phòng thủ của ta thế nào? Ngày mai rồi sẽ ra sao? Phần đông người ta đến đó để tự đặt ra những câu hỏi vŕ tự nghĩ ra những câu trả lời. Bọn con gái bưng cả những rổ quả mãng cầu xiêm, vác cả những bó mía vào dựng trong phòng thông tin để ngồi bán. Chúng nó chơi đánh chuyền chuyền hoặc róc mía xả bừa băi, la hét, cãi nhau ỏm tỏi mà cũng chẳng ai rầy la gì. Tôi ngán ngẩm quá, bỏ phòng thông tin, lững thững đi dọc ra bờ kênh. Chợt thấy lão Ba Ngù đứng dưới gốc cây bã đậu to nhất ở gần mé nước, tôi bèn men đến.
-Bác về bao giờ đó? -Tôi hỏi cho có hỏi, chứ đă nghe dì Tư Béo nói đêm qua với con mụ vợ Tư Mắm rằng lão về từ chiều.
-Về từ lúc về ấy! -Lão cười khà khà, đáp giọng đă có chén.
-Còn mày, bà chủ của mày bữa nay đi đâu mŕ mày sút xiềng dạo chơi đó?
-Bà đi đňi nợ. Đâu như tối mới về...
-Vô nhà lão ăn thịt rắn một bữa chơi đi!
-Rắn đâu mŕ ăn? Bác bắt được rắn ŕ? -Tôi hỏi vậy, chứ nghe nói thịt rắn là tôi đã lạnh xương sống rồi.
-Rắn kia chứ đâu, mậy! -Lăo vỗ một cái vào lưng tôi, trỏ ra kênh
-Ghe chở rắn dưới U Minh vừa lên đấy! Tôi trông theo ngón tay lão chỉ. Một chiếc thuyền nhỏ, mui lá, đang đč sóng rẽ vào bờ. Trước mũi thuyền, một thằng bé trạc mười bốn mười lăm tuổi, mặc quần đůi, cởi trần đứng dún hai chân, hai tay cầm cây sŕo dài chống xuống nước. Bên chân thằng bé có con chó săn, sắc lông màu tro, đang chồm lên chồm xuống, đuôi ngoắt qua ngoắt lại, hóng mõm lên bờ. Đằng sau lái, một ông cụ già cao to, vạm vỡ, chít khăn đầu rěu màu đỏ, áo bà ba đen thả cúc, vạt áo bay phần phật, đang nghiêng người quạt mái chèo đưa thuyền cập bến.
-Rắn ăn được sao bác? -Tôi hỏi lăo Ba Ngù.
-Trời ơi, thằng này ná quá! Chưa ăn bao giờ à? Thịt rắn ngon và bổ số một đấy. Con nít ở đây đều nếm můi thịt rắn từ hồi còn trong bụng mẹ.
-Cháu chưa ăn lần nŕo!
-Ngon tuyệt! Ngon tuyệt! Rắn hổ đất nấu cháo đậu xanh nước cốt dừa thě phải biết nhá! Già bảy mươi tuổi ăn món ấy thấy trẻ tráng ra như con trai mười bảy. Sơ sài thì rắn nước, rắn bông súng ướp xì dầu, cặp gắp nguyên cả con mà nướng, bẻ từng khúc cầm tay xé ra chấm muối ớt nhậu. Thịt ngọt không gì bằng. Cầu kỳ thì rắn hổ đất, mèo mun chưng thuốc bắc, gọi là "long hổ hội". Thường thường thì hoặc băm xào xả ớt, hoặc nấu ca-ri nước dừa... Khối cách ăn. Nhưng gì thì gì, cũng không bằng nấu cháo. Món phổ thông nhất mà! Vừa bổ lại vừa mát!
-Nướng thì còn thơm, chứ nấu cháo không tanh sao, bác?
-An rồi mới biết, thịt rắn thơm như thịt gà, lại giòn dai, không bở như thịt gà. Có phải nấu suông đâu mà tanh! Này nhé, làm lông xong, chặt khúc thả vào nồi cháo luộc lấy nước ngọt. Rồi mình gắp ra chứ. Mình xé thịt ra, băm nhỏ ướp hành tỏi, hạt tiêu, nước mắm. Rồi mình bắc chảo mỡ cho sôi lên, thả tỏi vào. ấy, bấy giờ mình mới xào hắn ta! Xong, mình mới múc cháo ra bát, rồi mình xúc hắn ta, mình cho vào cháo khoắng khoắng mấy cái... Rồi mình rắc lên một ít hạt tiêu... E hèm! E hèm!... Thôi, mày sẽ khắc biết thôi. Ghe đã cập bờ rồi kia!
-Ra xem rắn, chúng mày ơi!
Một giọng trẻ con bỗng hô hoán lên. Tôi nghe tiếng quen quen, quay lại đã thấy thằng bé lùn lùn béo ục ịch đang dắt một đám trẻ con chạy băng qua sân chợ, lao xuống bến.
-Chào ông bạn già! Có con rắn hổ nào không? -Lão Ba Ngù vẫy tay hỏi. ông cụ già chít khăn đầu rěu màu đỏ đă ra đứng trước mũi thuyền. Nghe hỏi, ông liền đáp, giọng sang sảng:
-Kỳ này không có. Toàn rắn rằn ri cóc, rằn ri cá không thôi. Nhưng được cái rắn béo lắm! -Đáp xong, ông bảo thằng bé cầm sŕo ban nãy:
-Cò ơi! Lấy cái giỏ bự ra cho tía đi con.
Thằng bé chui vô mui, đẩy hai cái giỏ tre ra khoang trước. ông giŕ dặng hắng một tiếng, xắn tay áo, hé sạp thuyền thò cánh tay trần vào khoang. Bọn trẻ nhỏ tức thời kêu lên: "Eo ôi!" và xô nhau lùi lại, vừa lùi vừa tranh nhau ngỏng cổ nhòm tới. ông cụ già thong thả lôi từ trong khoang ra từng con rắn một, bỏ vào giỏ. Con nào con nấy to cỡ bắp tay ông. Có một con rắn gì to như bắp chân người lớn nó cứ rúc vào khoang khiến ông phải khom lưng thò tay vào, nắm cổ nó trì một lúc mới kéo ra được.
-ông già có bùa, tụi bay ơi!
-ớ... ớ... con rắn quấn cánh tay ổng kia kìa!
-Khéo nó cắn, ông ơi!
-Rắn người ta khâu miệng cả rồi. Cắn quái gì!
Bọn trẻ nhỏ chồm lên chồm xuống theo từng động tác cánh tay lôi của ông cụ già. Có đứa bì bõm lội xuống nước ngập ngang đầu gối, đứng ngó vŕo trong. Có đứa mặt tái xanh tái xám vě sợ, nhưng vẫn thích xem, cứ nhấp nha nhấp nhổm giẫm bùn sùng sục ở chỗ mé nước. Khi ông già bậm môi nâng cái giỏ nặng trịch vác lên vai thì con chó săn lập tức phóng một cái, nhảy lên bờ. Bọn trẻ con chạy giạt ra hai bên, làm nước bắn tung tóe. ông già lần lượt vác cả hai cái giỏ to tướng lên bến, đặt xuống gốc một cây bã đậu. Những người mua đă chực sẵn chung quanh. Ai trỏ con rắn nào, ông già thò tay vào giỏ bắt ra con rắn ấy. Nói bao nhiêu tiền, họ trả bấy nhiêu, không kỳ kèo ngã giá như kiểu người ở các chợ tỉnh. Mỗi con rắn bán xong được siết chặt cổ bằng một sợi lạt và trao cho người mua xách đi. Lão Ba Ngù chọn mãi mới mua được một con ưng ý. Chao ôi, nom con rắn mà kinh! Bụng dẹt to cỡ bắp vế, không dài lắm, non mét rưỡi thôi, mà cái đầu thì bé như một quả bàng khô. Lão hất con rắn nằm vắt ra sau gáy, một tay bóp ngang cổ, một tay nắm gần chót đuôi, đưa tới trước. Con rắn gồng měnh nổi vảy lên chơm chởm như gai mít, sống lưng uốn qua uốn lại trên vai lão Ba Ngù, khiến tôi phát khiếp...
-Đi! Theo lăo về nhà làm bữa cháo cho biết! -Lão nhướng mắt bảo tôi.
-Để lúc khác, bác ạ! Bữa nay cháu bận trông quán cho dě Tư... -Tôi kiếm cớ thoái thác.
-Hê hê! Mày trông cái chợ thì có, chứ trông gì quán! Thôi, không thích ăn thì thôi. Không ai ép mày! -Lão bước đi mấy bước còn quay lại nhìn tôi, cười khà khà:
-Chỉ lo chừng mày quen mùi rồi, không đợi mời, mày cũng xách bát xách đũa chạy tới thôi!
Tôi trở về quán nuốt vội ba hột cơm nguội, xem chai, cốc, bát đĩa có suy suyển món nŕo không, rồi quơ cái áo vét-tông khoác vào người, đóng cửa quay ra chợ. Trời đă xế. Mặt trời đă xuống ngang ngọn cây tràm bên kia bờ kênh. ông cụ già bán rắn vẫn còn ngồi dưới gốc cây bã đậu, tàn lá xanh um ngả dài bóng đen trên mặt đất. Bọn con nít ban sáng bây giờ cũng không thiếu mặt đứa nŕo, đâu như cňn có thêm mấy thằng mới tới. Chúng chen nhau ngồi trước hai giỏ rắn, mặt mày nhem nhuốc, đỏ lơ đỏ lửng vě bêu nắng, vì mồ hôi và bụi bặm. Đứa thì khoanh tay lên gối, dán mắt vào những con vật bò sát kinh tởm đang ló đầu ra mắt giỏ; đứa thě cãi nhau, tiếng nói tiếng cười chí chóe. ông cụ già vẫn ngồi đó, tay chậm răi nhồi thuốc lá vào nõ tẩu: cán tẩu vừa dài vừa quăn queo trông rất lạ. Gương mặt ông khoáng đạt, rất dễ mến. Lŕn da rám nắng hun hun màu đất thó vẫn còn căng như da mặt người trẻ, chỉ ở đôi khóe mắt vŕ trên vầng trán cao là có xếp mấy đường nhăn. Râu ông không dŕy lắm, nhưng chắc như rễ tre và đen nhánh. Đôi mắt to, sáng quắc, núp dưới cặp chân mŕy rậm đen. Khi ông cắn tẩu thuốc vŕo mồm, môi dưới hơi trễ ra, méo xệch một bên vì khối nặng của cái tẩu hình thù kỳ dị và hơi to quá cỡ, thì trông ông như có vẻ dữ tợn. Tôi ngồi sát vào gốc cây, bên ông cụ già lực lưỡng ấy. Bộ quần áo bà ba đen đă bạc thếch vì dãi dầu nắng mưa sương gió của ông còn mang nguyên mùi hăng hắc của lá cỏ cây rừng tận những vùng đất hoang sơ, và mùi khói nồng lửa bếp trong chiếc thuyền con lưu động. Thấy tôi mới tới, thằng bé lůn lùn béo ục ịch hất hàm nháy tôi, rồi ngó vào giỏ rắn:
-Sợ không?
Tôi cười, không đáp. Nói sợ thě nó chê mình nhát, mà nói không thì không đúng.
-A, nó sợ rồi tụi bay ơi!
Một đứa lập tức kęu lên. Hình như ông cụ già không biết có đám trẻ nhỏ ngồi chung quanh. Đôi mắt to, đen nhánh đăm đăm nhěn vào khoảng không trước mặt. Không biết ông đang nghĩ gì. Bọn trẻ nhỏ thấy ông dễ dãi, không rầy la gì, và nhân có tôi mới tới, chúng muốn tỏ ra bạo dạn hơn nên càng nghịch tợn. Chúng nheo mắt, thè lưỡi, có đứa còn giả vờ toan thò tay vào giỏ lôi rắn ra để ném vào tôi. Mỗi lần có đứa trẻ nào nhích lại gần giỏ rắn thì con chó săn nằm bên chân chủ lại nhổm dậy, vươn cổ ra nhe răng gừ... gừ... mấy tiếng. Rắn quấn nhau trong giỏ nằm im như ngủ. Nghe tiếng chó gừ, những con rắn đang ló đầu ra mắt giỏ vội giật měnh rụt vào, uốn éo cựa quậy làm cho rắn lớn, rắn bé trong giỏ chuyển lung tung. Mấy đứa lì lợm nhất, cởi trần truồng ngồi chầu hẫu bên giỏ rắn, liền co chân bật ngửa ra sau. Chúng nó cười hí hí một cách khoái trá. Nhưng cũng có đứa ngồi ở chỗ xa hơn lại mếu máo muốn khóc. Thằng bé lůn lùn béo ục ịch cầm cái que nhổm tới nhổm lui, quơ quơ ra bộ sắp chọc vào giỏ. Con chó săn lại vươn cổ ra gừ... gừ... mấy tiếng. Lác đác có vŕi chiếc xuồng cập bến, họp buổi chợ chiều. Năm ba người đŕn ông cởi trần, áo vắt vai từ trong dãy tiệm đi men ra, đứng lại dưới bóng cây hóng mát. Trời oi quá! Chiều rồi mŕ nắng vẫn chói chang. Không một làn gió động. Những chiếc lá bã đậu như dán chặt lên nền trời, tôi ngửa cổ nhìn lên đến mỏi mắt vẫn không tìm ra một chót lá nào nhúc nhích.
-Tàu bay bà con ơi! -Một người đàn ông bỗng hốt hoảng kêu lên, nhớn nhác ngóng chung quanh.
-Im! Để nghe coi nŕo! Im nghe chứ!
Mọi người nín lặng. ông cụ già bán rắn nhấc cái tẩu thuốc ra khỏi miệng, ngó xuống chân, cười mủm mỉm. Tiếng vu vu của một con ong bầu đít vàng bay trong vòm nhánh lá rậm rịt, nghe hệt tiếng máy bay.
-Mồ tổ con ong. Làm người ta giật mình! -Người đàn ông kêu lên ban nãy nhăn nhó nói một câu chữa thẹn. Từ hướng biển Đông dậy lęn những tiếng ầm... ầm... nối nhau, nghe rung rinh cả chân trời.
-Chắc là tàu giặc, bà con ơi!
-In như máy bay ném bom chứ!
-Mình nghe giống tiếng sấm...
-Để nghe mŕ... Làm gì mà ó lên như giặc tới vậy?
Mấy người đŕn ông cãi nhau một chốc rồi kẻ ngồi xuống gốc cây cầm áo quạt phe phẩy, người đi tới đi lui trong bóng râm hừng hực hơi nóng từ mặt đất xông lęn, lặng lẽ không nói gì nữa. Thằng bé lùn lùn béo ục ịch bỗng nhổm dậy.
-Tàu giặc, các chú ơi! Nghe ì... ì... đấy!
-Thằng con nít, đừng có nói bậy! Bộ mŕy ở ngoải vô sao mà dám nói đó là tàu?
Người đŕn ông tóc chơm chởm như gai trừng mắt quát. Rầ... ầ ầm! Rầm...! Rầm... Rầm ầ... ầm! Bốn tiếng nổ bất thần nghe điếc tai. Những tiếng nổ chát óc, rền rền như tiếng súng đại bác, gần lắm. Đám con nít thét lęn, cắm cổ chạy túa đi. Mấy người đŕn ông kia, có người cũng quýnh quáng toan chạy, nhưng cũng có người vẫn đứng yęn nghe ngóng. Tôi quen tiếng súng tiếng bom từ mấy tháng nay, nên chỉ co người thụp xuống; khi dứt tiếng nổ, tôi liền đứng lęn quan sát chung quanh. Nếu đó lŕ súng giặc bắn thì cũng phải trầm tĩnh xem chúng tới từ hướng nào rồi hẵng chạy tránh chứ! Dưới kênh, thuyền xuồng tranh nhau tách bến, giầm chèo va khua lộp cộp. Một vài chiếc tam bản nhẹ hai chèo đã rời đi xa lắc. ông cụ già bán rắn vẫn ngồi đó, phì phèo tẩu thuốc lá, mặt bình thản như không. ông đưa mắt nhìn lên nền trời rồi hỏi tôi:
-Cháu không về nhà à?
-Cháu ở gần đây thôi. Đấy, chỗ cái quán đấy!
Tôi đáp, giọng vui vui, bụng có hơi rạo rực một chút vì thấy ông già chú ý tới mình. ông cụ già thong thả đứng dậy, búng tay boóc... boóc... mấy cái. Con chó săn ve vẩy đuôi, chồm hai chân trước lęn sủa oang oang, vụt lao đi như một mũi tęn. Một lúc sau, con chó quay về dắt theo thằng bé cầm sào chống trước mũi thuyền ban sáng.
-Tìm được chú Võ Tòng không? -ông già hỏi.
-Người ta bảo chú đi rồi. Đęm qua trời mưa, có con beo vào bắt gà dưới xóm Sậy, chú Võ Tòng rình bắt được. Đâu như chú chở con beo ra bán ngoŕi Ngã Bảy...
Tôi đă toan về, nhưng nghe thằng bé nói vậy bèn đứng nán lại, nghe hai cha con trò chuyện.
-Cò à, khiêng giỏ xuống ghe đi, con!
-Không bán nữa sao, tía?
-Thôi! Khiêng đi...
-Tây tới gần rồi sao, tía?
-Tây đâu mŕ Tây. Dông sắp tới rồi. Dông lớn lắm đấy con!
-Lúc nãy có mấy tiếng sét nổ trên không, kinh quá hở tía?
-ừ, thôi nhanh nhanh lên, con.
Lúc bấy giờ, gió bắt đầu thổi rao rao nghe mát mát. Con chó săn đă phóng xuống thuyền, đứng sau lái ngóc mőm lên nhìn trời. Cha con ông cụ già bán rắn vừa kịp khiêng hai chiếc giỏ xuống thuyền thì cơn dông ùn ùn thốc tới. Mây ở đâu từ dưới rừng xa, lúc nãy còn không trông thấy, giờ đã đùn lên đen sì như núi, bao trùm gần kín khắp bầu trời. Từng tảng mây khói đen là là hạ thấp xuống mặt kênh làm tối sầm những ngọn sóng đang bắt đầu gŕo thét, chồm chồm tung bọt trắng xóa. Từng đŕn cò bay vùn vụt theo mây, ngửa mặt trông theo gần như không trông kịp. Xóm chợ Ngã Ba Kênh dường như bé lại, thu mình cúi rạp xuống mặt đất. Mấy chiếc xuồng ba lá, mấy chiếc tam bản của người trên phố buộc dưới chân cầu nước trồi lên hụp xuống theo lượn sóng nhào, dựng mũi ngóc lên như ngựa muốn bứt dây cương. Chiếc thuyền chở rắn của cha con ông già đã chèo giạt sang bên kia bờ, xuôi xuống một quãng xa, lắc lư chui vào một con kênh nhỏ, hai bên bờ mọc chen chúc những cây tràm vỏ trắng, cành lá rậm rạp. Tôi toan chạy đi thì chợt thấy dưới gốc cây bã đậu có một chiếc túi da beo. Thôi, đúng lŕ của ông già bỏ quên đây rồi. Tôi chộp lấy, cắm cổ phóng theo bờ kênh, vừa hú vừa ngoắt sang bờ kia. Không ai nghe tiếng tôi hú gọi cả. Gió thổi ầm ầm ù ù như có hàng nghìn chiếc cối xay lúa khổng lồ đang quay thẳng cánh trên trời. Bờ kênh chỗ tôi đứng trống huếch trống hoác không một lùm cây bụi cỏ. Nhiều lúc, tôi có cảm giác như gió sắp nhấc bổng tôi lên, thổi tung đi. Dãy phố ngó mặt ra kênh chuyển mình nghe răng rắc, cột gỗ hàng hiên lay lay như đưa theo một chiếc võng vô hình. Ngói bị cuốn tung lên, bay khua lảng cảng trên nóc nhà nghe đến phát sợ.
Không về đến quán kịp nữa rồi. Tôi vừa thở vừa khom người chạy vŕo cái miếu cô hồn nằm xê xế phía dưới chợ, chỗ cây đa cổ thụ cành lá rậm xùm xòa đang quằn lên vật xuống như sóng. Trời đất mỗi lúc một tối sầm lại. Vũ trụ quay cuồng trong cơn gió mãnh liệt. Những tia chớp xé rạch bầu trời đen kịt phát ra những tiếng nổ kinh thiên động địa chung quanh ngôi miếu. Tôi thu người lại như một con trút, ngồi sát vào chân bệ thờ. Tường miếu xây bằng đá tổ ong, mái lợp ngói trát vữa rất chắc nhưng tôi bắt đầu cảm thấy không an toŕn chút nào. Chà, giữa lúc trời sét mà lại dại dột tìm chỗ trú ẩn ngay dưới một gốc cây to...
Tôi vốn ghét những chuyện hoang đường quái đản, không bao giờ tin rằng có ma quỷ, nhưng không hiểu sao trong giờ phút nŕy bỗng thấy trong người rờn rợn. Pho tượng "ạng Tiêu" mặt vằn vện, đầu mọc ba cái sừng, chiếc lưỡi thè dài quá rốn, đứng ngay tręn đầu tôi. Mỗi lần trời chớp, tôi đều ngửa mặt nhěn lên pho tượng với một nỗi lo sợ và tò mò không cưỡng được. Tôi dặng hắng một tiếng rõ to, phủi đít đứng dậy bước ra ngồi ngay ở cửa miếu. Một vŕi hạt mưa bay chéo hắt vào mặt tôi lạnh buốt như nước đá. Bầy kiến đất bň ra bò vào cạnh chân tôi, chúng quơ râu trò chuyện gì với nhau một cách bình thản, lại còn rủ nhau lũ lượt bò ra ngoài thềm miếu chứ không cuống cuồng chạy rúc vào tổ như những khi trời sắp mưa to. Cái túi da beo đựng vật gì hơi nặng thì phải. Hình như một con dao, bởi cái sừng ló ra ngoài cồm cộm thúc vào hông tôi. "Thử mở ra coi cái gì trong này?". Tôi vừa nghĩ thế, bỗng nghe từ trong lòng mình văng vẳng có tiếng bảo: “Đừng động chạm đến của cải của người ta. Tň mò vậy, không tốt đâu!". Tôi ngồi im một lúc, bŕn tay ngứa ngáy không chịu yên lại nắn nắn cái túi. Bây giờ tôi lại nghe cái tiếng văng vẳng ban nãy cùng phụ họa theo ý nghĩ của tôi: "Xem chút thôi mà! Vả chăng, mình có định lấy gì trong cái túi này đâu!". Thế là cái túi da beo mà tôi đã nhét nửa trong nửa ngoài vào túi áo vét-tông, tự nãy giờ hãy còn nằm yên đã bị bàn tay tôi lôi phăng ra tức khắc.
-A! Cái dao găm!
Tôi chợt kêu khe khẽ và từ từ rút lưỡi dao ra khỏi chiếc bao da láng bóng vì đẫm mồ hôi người lâu năm. ánh thép xanh xanh của lưỡi dao sắc như nước lóa lên mỗi lần trời chớp. Cán dao bằng sừng, nạm khâu đồng đỏ có chạm hoa văn rất đẹp. Cán bằng sừng gě như sừng nai. Còn những gì khác nữa trong cái túi bí ẩn này? "Bề nào mình cũng đã mở ra rồi. Xem một chút thì có làm sao!" Sự tò mò náo nức càng thôi thúc tôi hăm hở lật ra. Đây lŕ một gói lưỡi câu đủ cỡ, mười hai chiếc cả thảy, gói trong một mảnh giấy dầu cỡ bŕn tay. Một cục đá vŕ một miếng thép dẹt dẹt to và dài, hơn mặt bao diêm. Đây nữa là một gói thuốc. Thuốc gì mà dẻo quánh, xin xỉn vàng vàng, mùi hăng hắc, đưa lęn mũi ngửi thấy buồn nôn. Tôi bỏ lại vào túi da beo tất cả các thứ linh tinh ấy, chỉ trừ cái dao găm, rồi thắt miệng túi thật chặt bằng sợi dây gân khô quắt và trơn tuột. Cầm chặt cán dao trong tay, tôi bỗng thấy người mình như cao lớn hẳn lên, dường như sức khỏe tăng lên vạn bội, tôi nghe mạch máu chạy râm ran trong những đầu ngón tay. Trời chớp nhoáng nhoàng. Tôi thong thả đứng dậy rồi bất thần quay phắt lại, trừng trừng nhìn vào ngôi miếu.
Pho tượng kinh khủng vẫn lặng lẽ đứng tręn bệ thờ, lè chiếc lưỡi dài màu máu xuống rốn, bốn chiếc răng nanh trắng lòa nhe ra như cười. Một lúc sau, gió dịu dần, rồi tắt hẳn. Trên ngọn đa tối sầm mà cơn gió cuồng vừa gào rú ghê người ban nãy, mấy con chim chào mào xôn xao chuyền cành nhảy nhót, hót líu lo. Nắng vàng màu da chanh phủ lên cây cỏ một thứ ánh sáng dịu mắt, trong suốt và lung linh dường như có thể sờ được. Tôi trở ra bờ kênh, đi dọc dài theo bến một lúc, hy vọng sẽ gặp lại chiếc thuyền con của ông cụ già bán rắn. Nhưng ngóng hoài mà vẫn không thấy tăm dạng chiếc thuyền và cha con ông già đâu cả. Nhìn về nơi tít tắp, chỉ thấy ánh phản quang của ráng chiều sắp tắt từ mặt nước dòng kênh hắt lên những lùm bụi ven bờ. Sực nhớ ra rằng dì Tư Béo sắp về, tôi bèn gấp bước trở lại quán để lo bữa cơm chiều.
4. Đêm kinh khủng
Từ ngoài góc sân sau, tôi đã thấy trong hơi khói bếp bay tỏa ra xa mùi cháy của cá kho khô ướp nước màu dừa, rưới mỡ béo ngậy và có rắc hạt tiêu thơm phức.
-ông con ơi! Cơm đă dọn sẵn rồi đây!
Dì Tư Béo mát mẻ nói vọng ra. Đáng lẽ phải đi nhanh vŕo và sẵn sàng chịu đựng những câu quát mắng của bà chủ đôi khi cũng bất thần nổi nóng với mình, thì tôi lại bước từng bước một hết sức chậm chạp. Mùi cá kho khô thơm lừng mà ban nãy vừa nghe thấy đã thèm rỏ rãi khiến tôi cảm thấy bụng đói cồn cào, bây giờ bỗng bay đâu mất. Tôi không sợ những lời quát mắng. Thậm chí những câu chửi rủa tục tằn cũng không làm tôi bực tức hay run sợ nữa. Bởi vì, đối với một thằng bé lưu lạc một thân một mình như tôi, thì bất cứ người nào cũng có thể hoạch họe, bắt nạt, trút sự giận dữ lên đầu tôi một cách hết sức vô lý được. Điều đó, tôi chẳng coi ra můi gì. Thực tình thì ban đầu, tôi cũng khổ sở đau đớn vě phải hứng chịu những câu mắng mỏ thô lỗ cục cằn kiểu bọn đầu đường xó chợ mà từ tấm bé, vốn sống được nuông chiều trong gia đěnh nền nếp, tai tôi chưa hề quen nghe. Tôi đă nghĩ rằng ngày nào cũng ngửa tai ra mà hứng lấy những lời xấu xa như vậy, thì mình đến vỡ óc ra mà chết thôi. Tôi tự nhủ: "Dại gì mình làm tờ giấy thẩm để có giọt mực nào rơi xuống cũng hút lấy? Hãy ném trả lại cho họ". Thế là tôi đã nhanh chóng tìm ra phương pháp chống trả tiêu cực một cách có hiệu quả. Một là tôi cứ lờ đi, sự phản ứng ngấm ngầm bên trong đã tạo thành một thứ vỏ thép mà những lời cay độc đến mấy bắn vào cũng sẽ lập tức bị bật ra quay về trúng lại họ. Chẳng vậy mà những người đã há vành cung miệng, dùng lưỡi bắn tôi đã lồng lộn lên trước thái độ thản nhiên như không của tôi đó sao? Nhưng trái lại, tôi rất sợ vừa sợ vừa căm ghét những câu mát mẻ, nói bóng nói gió xa xôi. Thái độ ấy thường gây cho tôi nhiều đau đớn, vŕ những vết thương trong tâm hồn thơ bé của tôi cứ tấy lên mỗi lúc nhớ đến giọng nói mát mẻ, ngọt như mía lùi nhưng lại có xát ớt mà một người lớn đã ném cho một đứa trẻ con... Thấy tôi lặng lẽ bước vào, dì Tư Béo càng bực tức:
-Bữa nay mày câm rồi à? Thụt lưỡi rồi hay sao?
Tôi chẳng nói chẳng rằng, cứ lẳng lặng đi lau đũa lau bát, dọn mâm ra bŕn. Bà ta nhấc nồi cơm, múc cá kho, xới cơm ra bát xong đâu đấy, bčn hứ một tiếng:
-Không ngồi vào mà ăn, còn đợi mời đợi thỉnh nữa sao?
Chưa có lệnh bà chủ, lẽ nào tôi dám tùy tiện, ngồi vào mâm trước? Mà đợi bà phải bảo thì tôi lại mắc vào cái tội chờ mời chờ thỉnh! Đằng nào, tôi cũng có lỗi cả! Mà nào tôi có tội gì cho cam! Bà ta bảo tôi rằng bà ta đi đňi nợ đến quá đỏ đčn mới về. Quái quỷ gì đã bắt bà về sớm từ chiều, tôi làm sao rõ được? Bà ngó nghiêng vào mặt tôi, có lẽ dò xem thái độ hơn là chờ câu trả lời.
-Cháu không đói! -Tôi đáp bằng cái giọng không phải của chính měnh.
-Mặc mày thôi. Cơm nhà tao cũng chẳng thừa!
Bà ta nói lúng túng, giọng khê đặc như nén lại giữa cổ, bàn tay run run vờ cầm đôi đũa, đôi mắt trừng trừng nhěn tôi. Từ bộ mặt giận dữ, chiếc cằm nọng mỡ lúc nào cũng ướt đẫm mồ hôi của bà ta, đến mọi vật quen thuộc trong quán, tất cả cứ mờ dần trước mắt tôi... Tít đằng xa kia, dưới gốc cây bă đậu ở chỗ ông cụ giŕ bán rắn đă rời đi, một vệt ánh sáng nhờ nhờ phủ dŕi trên mặt đất bắt đầu sẫm lại. Vẳng trong tai tôi, giọng nói ấm áp đầy trěu mến của ông cụ già xa lạ: "Cháu không về nhà à? " Từ trong ngực tôi như có một cục gì cứ dâng lên, tôi cố nuốt xuống mà nó vẫn trào lên nghẹn ngang giữa cổ. Tôi không nén xuống được nữa, đŕnh để cho nó thoát bật ra thŕnh tiếng nấc và tôi đã khóc. Hình như dì Tư Béo chỉ chờ đợi có bao nhiêu đó. Nụ cười hả hê, chiến thắng của bà ta lập tức nở ra như miếng bánh phồng tôm thả vào chảo mỡ đang sôi reo. Có lẽ bà ta tưởng rằng thái độ lạnh nhạt và những lời mát mẻ của bà ta đã có hiệu quả trông thấy. Mà như thế là đủ rồi. Thường thường, những người lớn sau khi thấy mình chiến thắng được một đứa trẻ con, hŕnh hạ cho nó khổ sở đến điều, lại hay muốn tỏ ra rộng lượng, nhân hậu một cách hết sức buồn cười.
-Chà, hôm nay dì... như con mụ điên ấy! Đừng có chấp nê tao làm gì! Mày mà oán dì thì mày phải tội đó. Chẳng qua là dì giận các lão già, rượu chịu thì cứ uống phứa đi như nước, mà tiền thì một đồng cũng không chịu nhả ra!
Bà chủ quán vừa nhăn nhó làm lành vừa gật gà gật gù thú nhận như vậy. Bà ta lăng xăng đi thắp đčn, cười nói bả lả, làm như không có chuyện gì vừa xảy ra, một hai bảo tôi ăn cơm đi kẻo nguội. Tất nhięn là tôi phải ngồi vào bàn cùng ăn với bà ta thôi. Suốt bữa cơm, dì Tư Béo không ngớt phàn nàn cho số phận hẩm hiu của mình. Rằng bọn đàn ông vô sỉ, thấy bà ta một thân một mình thì giở trò lừa đảo, có đứa cňn lợi dụng tình thế gay go giặc sắp đánh vào đến nơi, cứ ỳ ra không trả nợ, thậm chí còn toan bắt nạt bà... Cơn giận làm bà ta phát no, hay vì mải nói quên ăn không biết, bà ta cứ luôn tay gắp cá bỏ vào bát tôi, cho đến khi tôi ăn xong rồi mà bát cơm trước mắt bà ta vẫn chưa vơi được quá nửa.
-Chúng nó đừng hňng bắt nạt bà!
Dì Tư Béo kết thúc tràng kể lể của mình bằng câu quyết liệt ấy, trước khi cầm bát đưa lên miệng để và nốt lưng cơm còn lại.
-Đúng như vậy thôi! -Tôi buột miệng nói.
-Mà mày thấy có phải không? Đừng có đứa nŕo hòng...
-Dạ. Người oai tín như dì thì chẳng ai dám động tới chéo áo chứ trông gì bắt nạt!
Bà ta dặng hắng một tiếng, bộ mặt nom rất hả hê. Bây giờ tôi mới nghiệm ra rằng chẳng riêng gì bọn lau nhau chúng tôi, mà người lớn, người càng già lại càng rất thích được khen. Cho dù đó là lời khen xỏ của một đứa trẻ con! Của đáng tội, rộng ra thě chưa biết thế nào, chứ trong cái xóm chợ này, những tay sừng sỏ nhất cũng chẳng dám động đến cái móng chân bŕ chủ quán rượu cô độc lắm phù lắm phép này. Không có mấy người là không nợ tiền bà ta. Cứ một đồng thì một ngày năm xu lãi. Cần lúc nào, hỏi lúc nào cũng có. Ai gặp bà ta ngoài đường cũng chào. Bà ta lại là người chắt lót, tiện tặn, không đánh bài bạc gì, nên hai cái túi bóng mỡ cài nứt kim băng cứ căng phồng lęn, no tròn theo thân hình béo ních của chủ nó. Cuộc đời và uy tín của bà ta, nói tóm lại đều tập trung ở hai cái túi nặng trĩu giấy bạc này.
-Lão Ba Ngù ngày hôm nay có tới đây không? -Dì Tư Béo chợt hỏi tôi.
-Không thấy đến. Việc gì thế, dì?
-Không. Cũng chẳng có việc gì. Hỏi thế thôi!
-Lúc sáng, cháu có gặp bác ấy ở chợ. Bác ấy mua con rắn to lắm. Bác ấy rủ cháu về theo bác ăn cháo rắn chơi. Nhưng cháu không đi.
-Thảo nào! Chắc là nướng trọn mấy đồng bạc của người ta nhờ lão đưa trả cho tao rồi. Hứ hự!
Tôi cất dọn mâm bát xong, không biết làm gì, nhận thấy bếp còn hồng bèn đi lấy ấm nước đặt lęn. Dì Tư Béo thì ngồi nhai trầu tóp tép ngoài chiếc chõng tre, tay không ngớt phảy quạt xành xạch. Đêm oi quá. Không có lấy một chút gió nhẹ cho đỡ bức. Dường như cơn dông ban chiều đă phung phí quá trớn, giờ đây, đęm đến, hết sạch gió rồi, đŕnh hổn hển nén sự bực bội vào trong bóng đen dày đặc mỗi lúc một thêm nặng nề trùm xuống mặt đất mênh mang.
-Chào dì Tư! Gớm, mắc cơn dông hồi chiều, chèo suýt chết! Mệt rã người. Về tới quán dì, thấy khỏe ra ngay.
Tiếng cười lanh lảnh của mụ vợ Tư Mắm cùng với chiếc áo bà ba lụa màu xanh nước biển của y xuất hiện trong quán như xua tan bầu không khí ngột ngạt từ nãy giờ...
-Đă cơm nước gì chưa?
Dì Tư Béo bước xuống chõng, vặn to ngọn đèn, hỏi cách vồn vã. Mụ đàn bà uốn lưng như một con mèo cái, đưa mắt nhìn vào tận bếp rồi xòe đôi bàn tay trắng muốt đè lên mặt bàn. Mụ thong thả đặt đít ngồi xuống ghế, thở phŕo ra:
-Chừng này chưa có gì bỏ bụng thì có mà chết! An cơm rồi, dì ạ. Nhưng nếu nhà còn thứ gì mặn mặn thì dì bắc hộ nồi cháo hoa, chốc nữa húp vài bát cho nó tỉnh người.
-Bữa nay tôi đóng cửa cả ngŕy, có bán chác gì đâu. Nhà còn một ít cá kho tiêu thôi. Tôi thèm, kho ăn chơi một bữa, hãy còn nửa nồi đây!
Dì Tư Béo đáp. Tư Mắm khom người vào quán, nách cắp chai rượu tây, tay cầm mấy con cá mực khô.
-Nướng giùm qua chút, chú em!
Hắn nói vọng vào bếp, mắt nhận ra ngay tôi đang đứng trong bóng tối. Không chờ tôi bước ra, Tư Mắm đi luôn vŕo bếp giúi nắm cá mực khô vào tay tôi. Rồi hắn móc thuốc lá ra, nách vẫn cắp chai rượu, bật lửa lên đốt điếu thuốc hút tại chỗ. Đôi trňng mắt bé ti hí như mắt rắn đảo một vňng rất nhanh, khiến tôi phải sợ sợ, không dám nhìn hắn. Tôi quạt than đỏ lên, nướng mấy con mực xong, đặt vŕo đĩa kčm theo quả chanh và một ít hạt tiêu giã nhỏ, bưng ra bàn. Tư Mắm gọi một xị rượu đế, ngồi ngay ở đầu chiếc bŕn dài chỗ cửa ra vào, rót rượu ra cốc và lặng lẽ xé mực bỏ vào miệng nhai nhồm nhoàm. Mụ vợ hắn thì ngồi chỗ góc bàn nhỏ bên trong, kê sát vách. Thấy mụ mở nút một chai "cột nhà vuông" rót thứ rượu thơm thơm vào chiếc cốc nhỡ, cho thìa đường vào, tôi vội vàng lấy ngay ra bát nước sôi đặt lên bàn, trước mặt mụ ta.
-Thằng bé này ngoan quá! Em phải là đứa làm bồi các nhà hàng lớn ngoài tỉnh, chứ không phải là chú nhỏ hầu rượu chỗ này đâu!
Mụ cười cười khen tôi như vậy và chậm rãi thả cốc rượu ngâm vào bát nước sôi. Hai bàn tay ngón búp măng thoăn thoắt mở con dao xếp kiểu sáu lưỡi ra, cắt gọn nhẹ một lát chanh rồi cho vŕo cốc, úp đĩa lên đậy lại. Giống hệt như cái lần mụ đă "chế biến món thuốc giải cảm" bận trước.
-Hai ông bà ngồi chơi, nghỉ một chốc đi! Tôi đi tắm một cái cho mát đă,
Dì Tư Béo vừa nói vừa bước vào buồng lấy quần áo, và khi trở ra, không quên bảo tôi:
-Vo nắm gạo bắc lên bếp nấu nồi cháo đi, con. Nhớ nấu loãng nhá!
Trong một thoáng, tôi đă làm xong việc bà chủ bảo, rồi đến lặng lẽ ngồi bên bếp lửa, chỗ nghỉ ngơi và là nơi trú ẩn tốt nhất của tôi mỗi khi tôi muốn quan sát một người khách rượu nào đó ở bên ngoài. Từ trong bếp lửa nhìn ra, không có một cử chỉ nào của Tư Mắm lọt khỏi mắt tôi. Hắn uống hai cốc rượu liền, uống vội vàng, xong lại xé mực nhai nhóc nhách, mắt luôn luôn ngó ra cửa... Hành tung của đôi vợ chồng này có nhiều khác lạ, càng khiến tôi chú ý theo dõi. Những lần trước, quán đông khách, Tư Mắm vẫn đến uống rượu. Mắt hắn luôn luôn nhěn vào cốc rượu, dường như người đăm chięu nghĩ ngợi, hoặc có một tâm sự đau buồn gě. Hắn không mấy khi bắt chuyện với ai và không nhìn ai. Chỉ khi nào hắn đưa cốc lên uống, đôi mắt ti hí mới liếc ngang, nhanh như tia chớp, ném cái nhěn trộm ra chung quanh. Đęm nay hắn không nhìn vào cốc rượu, mà chỉ ngó ra cửa. Không biết con mụ vợ hắn làm gì ngoài góc bàn. Chỗ tôi ngồi, khuất tấm vách ngang không trông ra được. "Chà, con quỷ cái này là một tay rượu không vừa đâu!" Tôi nghĩ thầm như vậy. Mới cách đây có hai hôm mŕ nó đă mở thêm một chai "cột nhà vuông" nữa rồi.
Dứt khoát không phải là thuốc giải cảm như mụ ta nói. Thuốc thì người ta nhắm mắt, nhắm mũi uống một hơi chứ có đâu ngồi nhấm nháp từng ngụm, thưởng thức một cách khoái trá như những tay bợm rượu sành sỏi? Và bàn tay nó cầm thìa khuấy cốc, ngón út cong lên đầy kiểu cách, có phải là bàn tay của người lam lũ đâu. Giá như đó lŕ những con mụ che dù đầm từ ngoài tỉnh chạy vào, luôn mồm kêu là không có nước ngọt tắm, không có nước đá uống thì là chuyện dĩ nhiên, không nói làm gì. Vợ một tên lái mắm tèng xí mà cũng học đòi làm sang đến thế kia ư? Không! Dứt khoát là không phải. Bộ quần áo bà ba tầm thường của mụ chỉ là cái lốt bên ngoài, không che giấu nổi cốt cách mụ ta. "Con mụ quái quỷ này đang làm gì ngoài đó?" Câu hỏi ấy cứ lởn vởn qua hình bóng những lưỡi lửa nhảy múa trước mắt tôi. Tôi không thể chịu được nữa, bèn đứng dậy rón rén bước ra. Mụ ta đang cắm cúi viết tręn một mảnh giấy xé nhỏ ra từ quyển sổ ghi chép các món tiền thu nhập hàng ngày. Cốc rượu vẫn còn nguyên chưa đụng tới. Làm sao xem được mụ ta viết cái gì đây? Tôi lia mắt sang thấy bát nước hâm rượu không còn bốc hơi nữa, bèn nảy ra ý nghĩ sẽ vờ cầm ấm nước sôi đến rót thay vŕo bát nước nguội để có thể tới bęn bàn mụ ta ngồi. Tôi nén thở, bước rén bằng những đầu ngón chân và đến sát bên lưng, nhìn qua vai mụ. Trên mảnh giấy, những dòng chữ Pháp viết tháu vội vàng, nhưng vẫn đẹp như cắt, nghĩa như sau: "CB-15-5-1946.-Hai trung đội chính quy trang bị đầy đủ. Một súng máy Bơ-ren. Cạnh đền: Một đại đội dân quân vũ khí thô sơ. Đập Đá: Một trung đội hỗn hợp, mười cây súng trường,
Trả lời với trích dẫn