Xem bài viết riêng lẻ
  #2  
Cũ 19-10-2012, 03:56 PM
thinhphat thinhphat đang online
Junior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2012
Bài gửi: 23
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Tôi trở thành thằng nhỏ hầu rượu trong quán dì Tư Béo bắt đầu từ hôm đó.
-Cầm hào bạc đây, ra chợ mà cắt tóc ngay đi!
Bà ta vừa truyền lệnh cho tôi, vừa tháo mấy cây kim băng cài miệng túi áo chích đưa lên ngậm ngang mồm, và móc từ trong miệng túi thâm đen vì bẩn mỡ ra một nắm giấy bạc, nhặt một tờ hào giúi vào tay tôi. Khi tôi cắt tóc xong, trở về quán thì thấy bà ta lúi húi ngồi khâu bên chiếc rổ may.
-Lại ướm thử cái quần đůi coi nào. Dì khâu cho mày đấy.
Bà ta đứng dậy, cầm mảnh lụa đen vừa cắt ra từ ống quần dŕi cũ của bà, chỉ cần khâu một đường lưng và một đường khoét đáy lŕ thành một chiếc quần đùi. Tôi mặc thử, thấy hãy còn quá rộng.
-Cầm bánh xà-phòng thơm của dì, xuống bến tắm đi. Rồi lên mà mặc quần mới, con!
Bà ta ngọt ngào bảo tôi. Bà ta nói với tôi rất ít, lời lẽ dịu dàng, nhưng mỗi câu là một mệnh lệnh. Sau khi tắm rửa xong, tôi vội mặc chiếc quần lụa đen ngắn vŕo. Bà ta ngồi nheo mắt, cười làm rung rung hai tảng mỡ của đôi gò má bóng nhẫy, ngắm tôi hồi lâu.
-Tươm đa! Sạch sẽ thơm tho như vậy mới có thể hầu khách được. Chứ đứng gần người ta mŕ hôi như cú thì họ gõ chai lên đầu biết không? Mà trông mày mặt mũi cũng sáng láng đấy. Có chữ nghĩa gì bỏ túi không?
-Dạ, cháu đă đỗ xép-phi-ca tháng sáu năm ngoái.
-Thiệt chứ? Trời, thằng này giỏi đa! Mới mười bốn mười lăm tuổi mŕ đỗ phi-ca thě giỏi lắm. ờ, hồi tao còn con gái, có một ông giáo phi-ca chú ý đến tao, nhưng duyên trời không định. Chà, ngày xưa đỗ phi-ca là đã nên ông nọ ông kia rồi. Khổ cho mày, gặp thời buổi loạn ly!... Thế ba má cháu đâu?
-Dạ, ở xa lắm!
Tôi đáp cách miễn cưỡng. Thấy tôi không muốn nói, bà ta cũng thôi không hỏi. Bà ta vốn là người khôn ngoan, lịch thiệp và từng trải, luôn luôn đoán trước ý mọi người, biết lúc nào nên nói, lúc nào nên không và nên chấm dứt câu chuyện ở chỗ nào. Điều này, tôi nhận ra trong những đặc tính của bà ta chỉ qua vài ngày sau thôi. Kể ra thì khách rượu của quán dì Tư Béo không thiếu hạng nào. Những tay vô công rồi nghề, la cà ngồi tán dóc suốt ngày cũng có. Những người tản cư, cắm thuyền tạt lên uống chén rượu rồi quày quả đi ngay cũng có. Bọn con buôn vào ngồi chỉ cốt lấy chỗ gặp gỡ, trao đổi tin tức các luồng hŕng đương khan hiếm, vŕ để kiếm món xŕo nướng khoái khẩu hơn là vì cần rượu. Đôi khi, một vài người lính Cộng hòa vệ binh có tuổi lén rời chỗ trú quân vào làm một cốc rượu khan, trước khi ra khỏi quán cứ đưa ống tay áo chůi ria mép và dặn đi dặn lại tôi: "Này, chú em, hễ có ban chỉ huy đến hỏi thì nói không có ai tới uống rượu đây cả nhé! Nhớ nhé!" Chỉ trong vài hôm, tôi đã quen mặt hầu hết những đệ tử Lưu Linh của xóm chợ này. Nhưng trong đám người thường lui tới nơi đây, tôi chỉ đặc biệt chú ý có hai người. Một lŕ lão Ba Ngù. Dường như lúc nào cũng có lão túc trực trong quán. Nói cho đúng thì lão ta không phải là tay mạnh rượu. Nhưng lão có thể lai rai uống được suốt ngày. Những chuyện tiếu lâm, những chuyện giang hồ mã thượng, lão kể đi kể lại với mọi người, tôi nghe đến thuộc lŕu nhưng vẫn thích nghe. Bởi mỗi lần kể, lão thường hay thêm thắt vào những chi tiết bất ngờ khiến tôi phải cười bò ra; hoặc cũng có một đôi chỗ mà lần trước kể dài dòng, lão đã biết khéo léo tước bỏ đi cho câu chuyện thęm tròn trĩnh, dễ nghe hơn. Những lúc đông khách, lão đứng dậy nhường chỗ cho người mới tới. Đôi khi lăo còn bưng hộ bát đĩa giúp bà chủ quán. Dì Tư Béo mến lão vì cái tài đưa chuyện và giữ khách không công của lão, nên thỉnh thoảng bà ta cũng đãi lão cút rượu kèm theo một con khô cá lạt nướng. Ai mời rượu lão đều uống, không từ chối. Nhưng chỉ uống một chén cho vui bụng người ta thôi. Không bao giờ lão uống đến chén thứ hai. "Mình là người biết tự trọng. Mình có phải là thằng già nát rượu đâu!" Lão thường lè nhè nói một mình như vậy. Cứ mỗi người một chén rượu mời, mỗi ngày đêm lão Ba Ngù có thể uống tính ra đến một, hai lít! Lão luôn luôn cởi trần, áo chỉ để vắt hờ bên vai, bảo: "Để vậy cho nó mát". Lão chỉ mặc độc chiếc quần đůi: da mặt, da lưng đỏ như cua luộc. Dường như bấm vŕo bất cứ chỗ nào trong thân hình lão cũng có thể chảy rượu ra ngay được... Đó lŕ người thứ nhất. Người thứ hai là Tư Mắm. Không biết y ở đâu, tên thật là gì. Chỉ biết rằng y thường chở mắm lóc, mắm trê, đôi khi chở cả dừa khô và bí rợ trong chiếc ghe lườn bán dọc theo các xóm bờ kênh, nên đồng bào gọi y là Tư Mắm. Còn người đàn bà trạc ba mươi tuổi mà Tư Mắm bảo là vợ y thì không mấy khi thấy bước lên bờ. Có lần, tôi nghe lão Ba Ngù che tay lên miệng bảo với dì Tư Béo: "Chà, bộ thằng Tư Mắm có ngải hay sao mà nó chài được con nỡm đẹp quá. Không phải vợ hắn đâu. Dứt khoát lŕ không phải, bà chị ạ!" Tư Mắm người dong dỏng cao, nước da xanh mét, tóc cắt bom-bê, mái tóc trước trán rủ xuống tận gò má bên phải. Đôi mắt y rất bé và sắc lạ lùng, tròng mắt đảo đi đảo lại rất nhanh vŕ không hề nhìn thẳng vào ai bao giờ. Một buổi sáng, lúc tôi đang bưng rổ tôm càng xanh từ chợ về đường thì nghe tiếng tàu bay vè vè từ hướng Sóc Trăng lượn đến. Người trong chợ xô nhau chạy tán loạn. Chiếc tàu bay đảo hai vòng trên xóm Ngã Ba Kênh, bay rất chậm nhưng thật cao, nghiêng qua nghiêng lại quan sát rồi thả xuống một đống truyền đơn. Những tờ truyền đơn tủa ra, bị gió cuốn bay đi về mạn rừng trŕm cách chợ có đến vŕi ngàn bước. Không biết bọn giặc nói gì trong ấy. Nhưng khi tôi về đến quán, thì gặp ngay lão Ba Ngù đứng chửi oang oang:
-Tổ cha thằng Tây. Mày bảnh thì xuống đây! Chứ bay trên trời thả giấy xuống thì cũng chưa gọi là bảnh...
Lão níu rổ tôm của tôi lại, hỏi:
-Mày có nhặt được tờ báo nào đút trong này không?
-Không.- Tôi đáp.
-Truyền đơn nó kęu gọi Việt Minh đầu hŕng đấy!
-Sao bác biết? Bác nhặt được ŕ?
-Nhặt đâu mŕ nhặt. Thằng Tư Mắm nó vừa bảo thế đấy. Cái thằng coi vậy mŕ nhát. Nó mới nghe hơi tàu bay một chút, đă xuống ghe chèo đi tuốt rồi!
Từ đó đến chiều, gặp ai lăo Ba Ngù cũng nói đi nói lại có bao nhiêu chuyện đó. Và câu chuyện giữa những người trong quán cứ xoay quanh vấn đề: "Tây sắp tiến công vào đây! Liệu chúng ta có chặn nổi không?" Vào lúc chạng vạng, trời bỗng nổi gió to. Tiếng sấm nổ chát chúa trên những vầng mây đen sì mỗi lúc như muốn sà thấp xuống ngọn cây. Mưa bắt đầu rơi lộp độp những hạt to vŕ nặng trên mái lá. Nhưng chỉ ào qua một loạt rồi tạnh ngay. Lão Ba Ngù đứng trước quán, nhìn theo những làn chớp kêu:
-Mưa đi ông! Muốn mưa thě cứ mưa đi. Sao cứ lŕm khó khăn cho người ta vậy?
-Nếu mưa to thì Tây còn chưa dám vào đâu, phải không anh Ba?
Dì Tư Béo lạch bà lạch bạch như con vịt mái xiêm, ra đứng bên cạnh lão, vừa thở dài vừa hỏi phụ họa.
-Dứt khoát là mưa thì nó không dám tiến công. Nó toàn đi giày, gặp đất trơn trượt ngã bỏ mẹ đi. Hồi đằng cựu các ổng rải quả mů u trên lộ, Tây đi ngã lạch cạch. Thế là dao, mác, mã tấu mình cứ xông ra chém nó như chém chuối!
Tôi dọn rửa bát đĩa xong, không còn việc gì làm cũng ra đứng hóng chuyện bên lão. Bỗng nghe dưới kênh có người hỏi:
-Quán dì Tư có còn gì nhậu không?
-à, thằng Sáu tuyên truyền!
Lão Ba Ngù kêu khẽ. Dì Tư Béo tức thời quát tôi:
-Vào nhóm bếp lên. Con nít mà biết cái gì, lúc nào cũng chực nghe.
Và bà ta đáp vọng ra kênh.
-Vô khối! Còn vô khối!
Tôi ngồi trong bếp vừa nhóm lửa, vừa đưa mắt nhěn ra. Nghe tiếng xuồng cập bến, khua lộp cộp. Dì Tư Béo chạy vào cầm cây phất trần bằng cuống quài dừa nước quét lạch xạch trên bàn rượu. "Chắc là có khách sộp đây!" Tôi nghĩ thầm như vậy, vě nghe lão Ba Ngù dạ dạ hai ba tiếng, bộ kính cẩn lắm. Rồi thấy anh Sáu tuyên truyền mồ hôi mồ kê nhễ nhại, tay xách một bao cà roòng công văn giấy tờ, khom người bước qua mái giọt, vào đặt phịch cái bao lên bàn. Lão Ba Ngù khệ nệ ôm một chiếc ba-lô to tướng ràng rịt những dây da, lấm lem bùn đất, thận trọng đi từng bước vŕo và sẽ sàng đặt lên chiếc chõng tre, cạnh cửa ra vào bếp. Một người đàn ông trạc hăm sáu hăm bảy tuổi, cao lęu nghêu, mặc bộ quân phục ka-ki màu rêu, thắt lưng da rộng bản, khẩu súng poọc-hoọc đeo trễ bên hông, tay xách đôi giày vải, tay cầm chiếc mũ vải kiểu hướng đạo bước vào đưa mắt ngắm nghía một vòng trong quán rồi thong thả kéo ghế ngồi xuống. Anh Sáu tuyên truyền giới thiệu với dì Tư Béo:
-Đây là ông Huỳnh Tấn, đặc phái viên của Tổng hành dinh ủy ban kháng chiến Nam Bộ, ở miền Đông mới tới! Dì Tư Béo chắp hai tay trước bụng cúi đầu chào, nói gì lí nhí trong mồm không nghe rõ, chỉ thấy đôi môi run run cách cảm động. ông khách đứng dậy, toét miệng cười, khẽ nghiêng đầu chào đáp lễ rồi nói cách thân mật tự nhiên:
-Kiến cắn bụng dữ rồi đấy! Dě có gì cho chúng tôi làm ba hột cho đỡ đói cái đă...
Lão Ba Ngù buột miệng đáp ngay:
-Còn nửa rá bún tươi. Có thể ăn với thịt bò xào lá cách. Còn nhậu thì... đâu như nhŕ còn mấy con tôm càng nướng, phải không bà chị? Mà rượu hôm nay không đặng ngon!
Dì Tư Béo gật đầu lia lịa:
-Muốn ăn cơm cũng được. Tôi chịu khó nấu. Chẳng mấy thuở mŕ! Bắt gà làm xé phay ăn thôi.
Anh Sáu tuyên truyền vừa lau mồ hôi vừa nuốt nước bọt, giọng sốt ruột:
-Dì muốn cho ăn thức gì cũng được. Có bao nhiêu cứ dọn hết ra đây. Nhưng phải gấp lên!
Lão Ba Ngù lăng xăng giúp bŕ chủ quán pha ấm trà, đặt lên bàn mời khách. Anh Sáu tuyên truyền bảo tôi đem cho ảnh một ít bún tươi, rồi ảnh rút trong bao cà-roòng ra một cuộn giấy nhặt lấy hai tờ rộng khổ nhất úp lên bàn, bảo tôi phết bún vào.
-Chà, có khẩu hiệu gì mới hả chú Sáu?
Lão Ba Ngù tò mò hỏi.
-Phải! Vừa lĩnh trên quận về đây. Bác kê giúp cái ghế cho tôi dán lên vách đi.
Anh Sáu tuyên truyền đứng lęn ghế, cầm tờ khẩu hiệu ngắm nghía cho cân bằng hai đầu rồi từ từ áp vŕo vách lá. Dán xong một tờ, anh thong thả dán nốt tờ thứ hai. Tôi cầm đčn soi lên, nhìn trân trân vào những dòng chữ khắc gỗ in mộc bản mà tôi đã đọc nhiều lần trên các tờ khẩu hiệu dán đầy ở những nẻo đường tôi đă vượt qua. Độc lập hay lŕ chết! Nước Việt Nam của người Việt Nam! Anh Sáu tuyên truyền lại lôi ra một tờ giấy khổ nhỏ in chữ chì, còn thơm phức mùi mực đỏ ty-pô, dán vào vách ngang tầm mắt người ngồi ở bàn. Lão Ba Ngù lẩm nhẩm đánh vần:
-Khờ... ông... không, đờ... i đi.... Không đi lính chờ... o cho... Không đi lính cho giặc!
Đôi mắt trňn ra, nét mặt trang nghiêm, lão Ba Ngù lần lượt vừa đánh vần vừa đọc hết những khẩu hiệu như những lời thề viết lęn bằng máu: Không đi lính cho giặc! Không bán lương thực cho giặc! Không đưa đường chỉ lối cho giặc! Ai có dao důng dao, có mác dùng mác, mỗi người dân là một người lính, mỗi thước đất là một chiến hào, sẵn sàng hy sinh bảo vệ nền độc lập cho Tổ quốc! Đọc xong rồi, lăo Ba Ngù lẳng lặng bước đến chỗ móc áo, lấy cái áo bà ba đen của lão giũ giũ mấy cái. Đoạn lão mặc vào, cài cả cúc cổ cẩn thận. Lão cứ đứng nhìn lên những dòng chữ đỏ chói như máu kia, hai bàn tay vuốt đi vuốt lại những nếp áo nhăn nheo đă lâu không mặc tới. Không biết có phải vì cơn gió to lúc nãy khiến lão bị lạnh, hay bởi lẽ nào khác tôi không được rõ. Chứ trông nét mặt lo lắng và cử chỉ trang nghiêm của lão thì tôi thấy giống như lão đang đứng bęn giường một người bệnh thập tử nhất sinh. Kinh nghiệm ở những nơi khác thì với tình hình này, chắc chắn là chỉ trong vòng một tuần lễ nữa thôi, giặc Pháp sẽ tiến đến đây...
-Trời ơi, mày có vào bưng đĩa thịt bò ra giùm tao một chút không? Làm gì mà đứng chết gí ngoài đó vậy?
Dì Tư Béo trong bếp eo éo gọi vọng ra. Tôi giật mình chạy vào, suýt nữa ngã bổ xuống ngạch cửa. Lão Ba Ngù không vào giúp tôi một tay như mọi khi, lão lặng lẽ ra đứng trước bến hút thuốc lá một lúc rồi bỏ đi đâu mất. Coi bộ ông Huỳnh Tấn vŕ anh Sáu tuyên truyền đói dữ. Chẳng mấy chốc mà hai người đã làm sạch rá bún và hai đĩa thịt bò xào to tướng. ông Huỳnh Tấn vươn vai đứng dậy, co duỗi chân tay, cười hì hì:
-Từ sáng đến giờ, hai anh em thay nhau chčo một mạch chẳng có hột cơm bỏ bụng. An bữa bún ngon quá. uớc chừng còn một rá nữa, chúng tôi cũng ních hết!
Anh Sáu tuyên truyền quay sang hỏi dì Tư Béo đang chắp hai tay trước bụng, đứng bęn góc bàn hầu khách:
-Độ mấy giờ thě liên lạc ở Thới Bình lên tới?
-Sớm thì cũng chín mười giờ. Trời đất này, ngược nước ngược gió, họ có thể lên khuya hơn... Các ông cứ ở lại nghỉ cho đỡ mệt.
Dì Tư Béo đáp thong thả, có ý muốn cầm khách.
-Có gì nhậu, dì mang ra vứt đó cho chúng tôi! ông Huỳnh Tấn nói cách vui vẻ.
-Dằn bụng rồi, bây giờ có thể lai rai được chứ hả, đồng chí Sáu?
Tôi quạt than hơ lại mấy con tôm càng nướng sẵn, to cỡ cổ tay người lớn mà dì Tư Béo còn cất trong chạn. Trong khi đó, anh Sáu tuyên truyền cầm đèn ra sau quán ngắt mấy ngọn rau răm, còn ông Huỳnh Tấn thì giành với dì Tư để tự tay ông ta giã bát muối ớt cho vui.
-Bác Ba Ngù đi đâu rồi hả dě Tư? Anh Sáu tuyên truyền chợt hỏi.
-ối, có trời biết ổng đi đâu! Muốn đến thě đến, muốn đi thě đi.
-Nhậu mà thiếu bác ấy thì không vui!
-Có tôi đây, chú Sáu ạ! Lăo Ba Ngù từ ngoài nói vọng vào.
-May quá, chỉ lo về không kịp.
Lão Ba Ngù bước vào, đặt một lít rượu trong như mắt mèo lên bàn, xoa xoa hai bàn tay rồi đan mười ngón tay vào nhau, nghiêng đầu ngắm chai rượu:
-Tôi chạy vào tận xóm Tràm, nài lại của họ đây. Không mấy thuở... Để khách xa uống rượu không đặng ngon sẽ mang tiếng đất Rạch Giá, Bạc Lięu mình!
Khi ba người đă ngồi vào bàn, sắp sửa rót rượu thì có một bóng người mặc quân phục màu đen, khoác ca-pốt, lom khom bước theo ánh sáng đčn, đi vŕo quán. Tôi nhận ra ngay đó lŕ anh phân đội trưởng Cộng hňa vệ binh vừa về đóng quân ở xóm tręn đă mấy hôm nay. ông Huỳnh Tấn bỗng xô ghế đứng dậy, đôi mắt trňn thao láo nhìn anh phân đội trưởng, còn anh phân đội trưởng thì đứng sững lại ở chỗ ngạch cửa, mồm há hốc ra. Hai người im lặng nhìn nhau, rồi cả hai cùng lao tới ôm lấy nhau, tay đấm đấm vŕo lưng nhau thùm thụp:
-Trời ơi, tao tưởng mày chết rồi!
-Tao cũng tưởng mày chết rồi!
-Vậy ra không thằng nào chết cả...
Hai người cùng tranh nhau nói. Không còn nghe câu nào là của người nào. Những tiếng nói bằng giọng cường tráng sôi nổi vồ vập tuôn ra cùng với những tiếng cười vui vẻ, mừng rỡ của đôi bạn těnh cờ gặp lại, cứ xoắn lấy nhau.
-Sao nghe mày chết ở mặt trận Gò Công rồi? Ngồi xuống đây! ông Huỳnh Tấn kéo ghế mời anh phân đội trưởng.
-Chết thế nào được? ờ, mình có bị thương ở Vàm Láng, Gò Công,
anh phân đội trưởng lột áo ca-pốt ném lên chõng, mở cúc áo trỏ vào vết sẹo trên ngực.
-Xuyên từ trước trổ ra sau lưng, thủng một lỗ phổi, cầm chiếc đũa thọc qua được. Bọt cứ tuôn ra phě phì. Cả máu cả bọt. Vậy mà chỉ hơn tháng sau mình đã dậy, ra chỉ huy chiến đấu!
-Sức mày thì ca-nông bắn cũng không chết! ông Huỳnh Tấn cười hì hì.... Anh phân đội trưởng bấy giờ mới ngắm nhìn ông Huỳnh Tấn từ đầu đến chân:
-Mày vừa tới đây à? Bây giờ chắc làm to lắm hả? Nhưng chưa quân sự lắm! Hãy còn cái mã của anh sinh viên...
Anh phân đội trưởng bỗng nhếch mép cười, không nhìn vào ông Huỳnh Tấn nữa mà chỉ ngó ra ngoài trời tối đen một lúc rồi từ từ quay lại, giọng trầm hẳn xuống, hơi buồn, pha đượm ít nhiều chua chát:
-Nghe anh em bảo là cậu có theo phái đoàn anh Giàu đi hội kiến với Gờ-ra-xây! Thằng Gờ-ra-xây bắt cậu bỏ vào bao bố nhận xuống cống Sài Gòn - Chợ Lớn, chết rã thây từ cuối tháng 10 năm ngoái mà!
-ối! Anh em ghét mình, họ bịa ra họ nói vậy, chứ mình có đi hội kiến hội mối bao giờ! Mà họ ghét cũng phải thôi! -ông Huỳnh Tấn nói chậm rãi.
-Chuyện còn dài, hẵng uống một cốc rượu mừng đã.
Lão Ba Ngù đứng dậy, tay phải ngửa ra, tay trái cầm chai rượu mở nút lá chuối cắn vào mồm, đặt chai rượu nằm xuôi trên lòng bàn tay phải, từ từ xoay bàn tay úp xuống rót rượu ra cốc, khi cốc rượu vừa đầy, lăo nhẹ nhàng uốn ngửa bàn tay đưa cổ chai rượu xốc nghiêng lên. Dòng rượu nhỏ và thanh như sợi chỉ bị cắt đứt khỏi miệng chai, tụt xuống mặt cốc đầy, lŕm sủi bồng mấy cái tăm nhỏ chạy vňng quanh. Lão rót luôn bốn cốc, đều tăm tắp như vậy, không hề nhểu ra bàn một giọt rượu nào.
-Trời ơi! ông già rót rượu đẹp quá! Như nghệ sĩ biểu diễn ấy! -ông Huỳnh Tấn kêu lên. Lão Ba Ngù vuốt ria mép, đặt chai rượu xuống bàn:
-Nói các đồng chí tha lỗi, chứ tôi khổ sở vŕ hết nghiệp vì rượu mới chỉ học được cái trò này. Đã uống rượu thì phải biết rót rượu, sao cho đừng có giọt phí giọt phạm nào rơi vãi xuống bàn. Cũng như người lính cầm súng, phải bắn bách phát bách trúng, bắn sao cho đừng trật một viên. Chớ để một thằng Tây nào chạy thoát!
Anh Sáu tuyên truyền cười ha hả:
-Bác Ba bữa nay xuất khẩu thành văn. Vô ban tuyên truyền công tác với tôi đi, cha nội!... Các đồng chí thấy chưa, ngán dân đất Chắc-Băng nŕy chưa? Rượu chưa vào mà lời châu ngọc đã tuôn ra rồi!
Dì Tư Béo vừa cười múm mím vừa cắt chanh ra vắt rưới lên mấy con tôm càng nướng bóc vỏ.
-Bà chủ uống với chúng tôi một ly cho vui, -ông Huỳnh Tấn hai tay bưng cốc rượu lên đưa sang mời dì Tư Béo. Dì Tư Béo lắc đầu quầy quậy:
-Tôi xin vô phép các ông. Tôi không uống được mŕ! Để tôi đi lo cho các ông nồi cháo gà dằn bụng để buổi khuya đi đường.
Bốn người chạm cốc, uống cạn. Họ hút thuốc lá và thổi khói ra um nhà. Rượu được vài tuần, ông Huỳnh Tấn bắt đầu dặng hắng nói:
-Đây toŕn đồng chí, bŕ con anh em cả thôi. Chẳng ai xa lạ gì mà phải giấu. Anh em họ không rõ, họ ghét mình là chuyện tất nhiên thôi. Mình chẳng có đi hội kiến với thằng Gờ-ra-xây đâu. Měnh là cái thá gì! Vả lại, nói cho cùng, nếu cần bảo vệ các "anh lớn" thì dẫu vào hang cọp, mình cũng chẳng từ nan... Mình đi làm cận vệ, người cận vệ độc nhất, đưa anh Giŕu đi gặp thằng đại tá Nhật ở đěnh An Lạc để bŕn về các thể thức chuẩn bị gặp thằng Gờ-ra-xây. Thằng giặc già này nó lập kế hoãn binh để chờ tiếp viện, trong khi các sư đoŕn dân quân cách mạng của ta vẫn còn vây đặc chung quanh Sài Gòn - Chợ Lớn. Tất nhiên là sau đó, cuộc hội đŕm ở khu nhà Hui-bon-hoa trong Chợ Lớn chẳng đem lại kết quả nào. Có thể nói là anh em còn thật thà, chứ không phải ngán gì nó đâu!
Anh phân đội trưởng chŕnh môi ra, không biết anh cười hay không cười, chỉ thấy đôi cầu vai rung rung:
-Không ngán mà lại toan đình chiến với chúng nó?
-Anh em nhiều người đă nói và nghĩ như cậu. -ông Huỳnh Tấn nói chậm rãi, giọng ôn tồn.
-Trong lúc toàn thể dân chúng quyết xông ra bóp chết quân giặc xâm lược mà nói đình chiến thì ai mà không ức? Có thể nói các tướng lãnh ở mặt trận Sài Gòn - Chợ Lớn không ai chủ trương vậy đâu!
-Không chủ trương, không tán thành mà có cuộc hội kiến ấy? -Anh phân đội trưởng nhỏm dậy, nói cắt ngang...
ông Huỳnh Tấn lặng thinh, rót rượu cho mình, cầm cốc lên uống từng ngụm nhỏ. Nét mặt ông trở nên đăm chięu, rắn rỏi lạ. Dường như ông không phải con người liến thoắng vui tính như khi mới bước vào quán lúc chập tối. ông nói:
-Nóng làm gì? Thong thả mình kể cho cậu nghe. Một lần nữa, mình khẳng định là không ai chủ trương đěnh chiến. Bằng cớ là trong hội nghị các tướng lãnh của mặt trận Sài Gòn - Chợ Lớn tại Tổng hành dinh của ủy ban kháng chiến Nam Bộ tại chợ Đệm...
-Có những ai nào? -Anh phân đội trưởng bấy giờ mới ngồi xuống ghế, chăm chú nghe.
-Đông lắm! Měnh không nhớ hết... Tất nhiên là có anh Trần Văn Giàu, anh Huỳnh Văn Tiểng, anh Từ Văn Ri, anh Hai Râu, anh Nguyễn Lưu, anh Mười Trí, anh Tư Tỵ vŕ anh Ba Dương. Cậu nhớ Tư Tỵ không? Trời ơi, có thể nói cha ấy là một ác-xơ-nan, khắp người đeo đầy vũ khí. Nŕo dao găm, súng lục, nào gươm Nhật... lại đeo ống nhòm, đội nón sắt, mang ghệt, đi giŕy đinh. Tư Tỵ giữ mặt trận Bŕn Cờ, Chợ Đủi ấy mŕ!
-Nhớ rồi! Khi mình rút xuống Mỹ Tho, còn nghe nói anh Nguyễn Lưu lãnh đạo công đoŕn nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn đánh nhiều trận sướng lắm, phải không?
-ừ, Nguyễn Lưu thì còn nói gì nữa! Dân Côn Đảo về mà!
-Nói ngay chỗ cuộc hội nghị ấy nghe nào!
-Lúc đang họp thě anh Ba Dương đáp một chiếc tŕu sắt từ Bình Xuyên đi tới. Cậu biết anh Ba Dương chứ? Xưa nay vẫn vậy. Thủ lãnh Bình Xuyên, dân anh chị mà lúc nào cũng khiêm tốn, ôn hòa, ít nói... Trong cuộc họp, Ba Dương chỉ lặng lẽ ngồi nghe, hai tay tì vào thành chiếc bàn tròn vòng gõ, mặt cẩm thạch, thứ mặt bàn lúc nào cũng lạnh như nước đá ấy. Mọi người bàn cãi lung tung việc nên ngưng bắn hay không ngưng bắn. Đợi cho mọi người ngớt tiếng, bấy giờ anh Ba Dương mới đứng dậy, thong thả rút trong túi áo bŕnh-tô ra một cái chai, đặt cộp xuống giữa mặt bŕn. Biết gì không? Trời ơi, trong chai toàn là những ngón tay người ngâm rượu. Anh nói: "Đây là ý kiến của anh em Bình Xuyên phát biểu với hội nghị, khi nghe nói có lệnh đình chiến". Rồi anh nghiêm giọng, tiếp: "Họ chặt ngón tay thề trước bàn thờ Tổ quốc, trước ảnh Cụ Hồ là nhất định đánh đến cůng... Các anh ra ngoài kia mà coi chiếc tàu của tôi. Tụi Tây ở Rạch Kiến nó bắn tôi như vậy đó!".
-Thế thì còn đi hội nghị với Gờ-ra-xây làm chó gì nữa? -Anh phân đội trưởng vung tay, nói như quát.
-Đi lŕ đi, cňn đánh lŕ đánh! Hai vấn đề khác nhau. Vấn đề chủ yếu lŕ đánh. Měnh kể cho cậu nghe vừa rồi đó. Anh em có ai rút lui đâu!
ông Huỳnh Tấn còn toan nói điều gì nữa đó, chừng như sắp nói một câu quyết liệt lắm thì phải, nhưng ông lại thôi, mặt lầm lầm, móc thuốc lá ra đốt hút cách bực dọc. Anh phân đội trưởng chấm đầu ngón tay trỏ vŕo rượu vẽ vẽ lên mặt bàn. Còn anh Sáu tuyên truyền và lão Ba Ngù thì ngồi đưa mắt nhìn nhau. Tôi thấy mọi người im lặng, tự nhiên mình cũng đứng ngây ra, không dám động cựa. Trong quán chỉ cňn nghe tiếng củi nổ lép bép và tiếng nước sôi reo đều đều sau bếp. Lâu lâu, trời lại chớp lên một cái. Mặt nước dòng kênh sáng rực trong ánh chớp. Những đầu ngọn cây tràm và chiếc xuồng không đang buộc bên kia bờ hiện lên xanh biếc, dường như trời đất cỏ cây và những gợn sóng lăn tăn không ngớt vỗ nhẹ đôi bờ kia thảy đều rung rung trong sắc xanh kỳ ảo, mắt người chưa kịp trông rõ đã biến mất vào bóng tối. Một giọng hát buồn của anh thanh niên nào đó, đang thả thuyền trôi theo dňng kênh, nghe mỗi lúc một gần. "... Ngoài hiên giọt mưa thu... thánh thót rơi... Phòng vắng..." Lão Ba Ngù tức thời đứng dậy, bước thěnh thịch ra ngoài.
-Ghe ai chèo lạc xạc đó? -Lão hỏi.
Dưới thuyền có tiếng đáp:
-Đi chở củi về đây, ông nội. Xét giấy hả?
-Dưới ghe có ai bệnh sắp chết phải không? -Lão Ba Ngù lại hỏi, giọng cay độc.
-Có ai bệnh gì đâu! Đừng có trů mạt!
-Hừ, vậy mà tưởng thằng nào đang mắc dịch mắc gió gì dưới ghe đó chớ. Bộ sắp chết sao mà rên khừ khừ vậy? Bây giờ không phải là lúc hát cái giọng mèo ướt đó nữa, nghe chưa?
Không có tiếng trả lời. Tiếng chèo khua mỗi lúc một xa. Lão Ba Ngù thở phì phì, bước vào quán cởi áo ra ném bên chõng cái xoạch. Anh Sáu tuyên truyền liếc sang ông Huỳnh Tấn và anh phân đội trưởng, cố nín cười. Khi thấy hai người này cũng đang nhịn cười như mình, anh Sáu tuyên truyền không nín nổi nữa, bèn phì một tiếng và một tràng cười ha hả vụt nổ ra.
-Chú Sáu, chú cười tôi cái gì?
-Lão Ba Ngù toan ngồi xuống ghế lại thôi, mắt lão dán vào đôi môi đang cười rung rung trong ánh đčn đỏ khé của anh Sáu.
-Ha! ha! ha!... Ai cười gì bác đâu!
-Bộ lão già này nói bậy à? Hừ, chú làm tuyên truyền chú há chẳng biết "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách", sao? Nước nhà còn mất, đến một thằng mẹ rượt như lão đây cũng còn có trách nhiệm mà!
Bây giờ thì ông Huỳnh Tấn, anh phân đội trưởng và cả dì Tư Béo vừa ở bếp quệt mồ hôi trán bước ra cũng đều cười lên thành tiếng. Khi lão Ba Ngù hiểu ra rằng đó là những tràng cười tán thưởng, lão bèn vuốt ria quay mặt vào trong tối lảm nhảm một mình:
-Có hơi lố bịch một chút! Nhưng tôi già rồi, thấy đâu thì nói đó vậy thôi. Nào, bà chị đã cắt tiết gà chưa? Tôi giúp một tay.
-Thôi, cám ơn. Cháo sắp dọn ra được rồi đấy!
Dì Tư Béo nói bằng giọng thanh thanh kéo dài làm duyên kiểu như còn trẻ. Bà ta sẽ sàng xắn tay áo lên, bàn tay béo núc cầm chai rượu rót liên tiếp ra bốn chiếc cốc. Bốn cốc rượu rót bồng mắt thỏ đều tăm tắp, xếp một hŕng ngay ngắn dưới ánh đčn lung linh, tưởng như rượu sắp tràn cả ra ngoài nhưng tuyệt nhiên không hề thấy có một giọt rượu nào rơi xuống mặt bàn...
Đęm hôm đó, măi đến mười hai giờ khuya vẫn không thấy xuồng lięn lạc dưới Thới Bình lên. ông Huỳnh Tấn sốt ruột không chờ được nữa, bčn cậy anh Sáu tuyên truyền tìm người đưa ông đi. Lăo Ba Ngù xung phong nhận lãnh chiếc tam bản của anh Sáu tuyên truyền chèo đưa ông Huỳnh Tấn. Anh phân đội trưởng lâu ngŕy gặp bạn cũ, vẫn còn nấn ná ở lại hàn huyên mãi cho đến lúc chia tay. Còn dì Tư Béo thì chẳng những dứt khoát không nhận món tiền bữa rượu, lại còn biếu ông Huỳnh Tấn và lão Ba Ngù mỗi người một đòn bánh tét nhân tôm thịt mang theo lót dạ dọc đường. Tôi thu dọn bát đĩa xong, vừa hạ cánh liếp xuống thì nghe tiếng Tư Mắm hỏi vọng từ dưới bến:
-Quán còn thức hả, dì Tư?
-Còn thức. Nhưng mà chẳng có gì ăn đâu... -Dě Tư Béo đáp cách miễn cưỡng.
-Không sao! Không sao! Rồi khắc có thôi mà!
Tư Mắm đă lên bờ, tự tay chống cánh liếp cửa, vào quán cầm đèn ra soi xuống bến cho mụ vợ hắn bước lên.
-Chào dì Tư! Khuya rồi mà chúng tôi còn làm phiền dì quá.
Trả lời với trích dẫn